Đối với người Do Thái, Lề luật có tầm quan
trọng số một. Thái độ trước lề luật chính là khuôn vàng thước ngọc để đánh giá
một con người. Đức Giêsu cũng được các đồng bào Người đánh giá và chấp nhận dựa
trên tiên chuẩn này; vì thế mà Người lên tiếng tuyên bố: “Thầy đến không phải
để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” lề luật.
Không ai có quyền bãi bỏ luật lệ, trừ chính
vị ra luật hay nhà lập luật. Trong Ít-ra-en, chỉ mình Đức Chúa Gia-vê có quyền
này; ngay cả Môsê cũng không, vì ông chỉ là người truyền đạt cho dầu luật có
mang tên ông. Luật này cũng không cần được ai kiện toàn vì nó đã hoàn hảo; có
chăng chỉ là giải thích và đó là bổn phận dành riêng cho các luật sĩ. Hiểu như
thế thì lời công bố của Đức Giêsu có thể bị coi là lộng ngôn, vì không ai có
quyền bãi bỏ cũng như không ai được phép ‘kiện toàn’ - sửa chữa bộ luật Môsê đã
truyền lại.
Thông thường thì người ta sẽ coi như phá
luật những kẻ không cặn kẽ tuân giữ lề luật. Rõ ràng nhóm Biệt Phái và luật sĩ
đã nhận xét Đức Giêsu là như thế, do đó đã liệt Người vào hạng tội lỗi, vì cho
rằng Người có thái độ coi thường, bất tuân luật thánh, cụ thể trong việc giữ
ngày Sa-bát và các nghi thức tẩy rửa.
Về phần Đức Giêsu, Người luôn khảng định
việc căn kẽ giữ luật là cần thiết “một chấm một phết trong lề luật cũng sẽ
không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. Các môn đệ hiểu rõ điều đó
cho nên sau này, kể cả khi Đức Giêsu đã về trời, họ vẫn tuân giữ căn kẽ mọi lề luật
Môsê. Các tông đồ còn muốn mọi tín hữu (nhất là các người gốc Do Thái giáo)
phải tiếp tục giữ trọn luật pháp theo lời Chúa dạy: “Ai bãi bỏ dù chỉ là một
trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là
kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời”. Tuy nhiên, sứ mạng đích thực của Đức Giêsu không
nhằm kêu gọi dân chúng giữ luật. Điều này đã được các Pharisêu, các luật sĩ… và Gioan Tiền hô làm bằng nhiều cách. Người khảng định: “Thầy đến…
để kiện toàn luật Môsê!” Và không chỉ Người, mà bất cứ kẻ nào tin vào Người
cũng phải kiện toàn lề luật như thế: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các
kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vài Nước Trời”. Tác giả Matthêu
thẳng thắn muốn các tín hữu gốc Do Thái (đối tượng chính của sách Tin Mừng ông
viết) phải hiểu rằng: Đức Giêsu và các lời Người dạy tuy không chống lại nhưng
cao trọng hơn luật Môsê rất nhiều, “Luật xưa dạy rằng…. Còn Thầy, Thầy bảo cho
anh em biết…” Thế thì ta phải hiểu điều các khảng định này theo ý nghĩa nào?
Trước hết ở đây ta không được hiểu Đức
Giêsu tự giới thiệu mình là một nhà lập pháp mới (legislator novus), theo nghĩa
giao ước mới thì đòi phải tuân giữ luật mới, cũng như giao ước cũ phải tuân giữ
luật cũ của Môsê. Không! Giêsu không phải là người làm luật, nhưng là người làm
cho mọi luật được nên trọn. Không có Người, luật lệ cho dầu có thể là rất tốt,
rất hoàn chỉnh, vẫn chưa có thể được coi là trọn; và duy nhất chỉ một mình
Người mới làm được điều đó. Ai tin vào Đức Giêsu, đặc biệt qua biến cố tử nạn
và phục sinh của Người, đều có khả năng kiện toàn, hay làm cho nên trọn bất kỳ
luật lệ nào họ nắm giữ (dầu là luật dân sự bất toàn hay luật tôn giáo thánh
thiện). Lòng thương xót, từ ái cứu độ của Thiên Chúa, mà Đức Giêsu mạc khải,
mới là nền tảng duy nhất để canh tân và kiện toàn mọi thứ luật lệ. Chỉ cần nhìn
vào các trường hợp được nêu trong bài Tin Mừng: không giết người, không ngoại
tình, ly dị, thề gian dối… ta mới thấy chỉ Tin Mừng tình yêu Thiên Chúa mới có
thể kiện toàn và làm cho chúng được nên trọn tới thế. Sự nên trọn này chắc chắn
không hệ tại ở luật pháp hoàn hảo hơn hay kém, nhưng hệ tại ở thái độ bình an
và tự do ta có khi nắm giữ các lề luật đó, trong tư thế của một người con được
Chúa Cha yêu thương. Không tin tuyệt đối vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa nơi
Đức Kitô Giêsu, ta sẽ không bao giờ có được thái độ này, và đương nhiên sẽ thấy
khó có thể chấp nhận các đòi hỏi của luật pháp, kể cả những lề luật hoàn thiện
và cao đẹp nhất.
Phaolô biết rõ hơn ai hết sự cao đẹp của
luật Môsê, nhưng cũng chính vì thế mà ông càng xác tín hơn ai hết về giới hạn
của nó so với Tin Mừng. Trong chương 3 thư gởi giáo đoàn Ga-lát ông lấy hình
ảnh người giám hộ để chỉ luật Môsê rất thánh thiện (và bất cứ luật lệ nào khác,
kể cả luật Hội Thánh), và hình ảnh con cái tự do để chỉ sự ‘kiện toàn - nên
trọn’ của niềm tin vào Đức Kitô Giêsu. Tôi thiết nghĩ ông quả đã nắm bắt rõ vấn
đề: “Khi đức tin đến, thì chúng ta không còn ở dưới quyền giám hộ nữa… vì tất
cả anh em đều là con cái Thiên Chúa…” (Gl 3,25-26)
Ôi, niềm tin Kitô hữu vào tình yêu Thiên
Chúa nhân ái thứ tha có khả năng nâng chúng ta lên cao biết mấy, vượt xa sự
kiểm tỏa của luật pháp, cũng như mọi lo lắng sợ hãi của thưởng phạt nghiêm
minh!
Trong tư cách là công dân Việt Nam, là Kitô
hữu, là tu sĩ - linh mục... con phải khoác lên mình biết bao nhiêu thứ luật lệ.
Con thâm tín một điều rằng không một luật lệ nào trong số đó tự nó có thể cứu
thoát được con. Lạy Chúa từ nhân! Xin cho con được như Phaolô xác tín rằng: chỉ
có niềm tin vào Chúa cứu độ và từ nhân mới giúp con làm cho các luật trên được
nên trọn, đồng thời biến con thành con cái tự do đích thực của Cha trên trời.
A-men
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty