BỔN MẠNG THÁNG 09



THÁNG 9

NGÀY
LỄ
QUAN THẦY
05/09
Lễ Thánh Teresa de Calcutta
Chị Lệ
21/09
Lễ thánh Matthêu, Tđ
Chị Hồng Thịnh
27/09
Lễ Thánh Vincent de Paul
Chị Lương (NT)
29/09
Lễ kính Tổng lãnh thiên thần Gabriel
Lễ kính Tổng lãnh thiên thần Micael
Dì Trưởng
Chị Hường (NT)

 

Ghi Chú:          
* Từ ngày 28/09 đến ngày 06/10: Làm Tuần cửu Nhật, Mừng Lễ Mẹ Mân Côi. Bổn Mạng Hội Dòng



LỄ GIỖ BỐ MẸ CHỊ EM

TƯỞNG NHỚ VÀ CẦU NGUYỆN



NGÀY
LỄ GIỖ
05/09
Giỗ ân nhân và thân nhân của Dòng Đaminh
08/09
Bà cố Catarina - Thân mẫu Dì Trưởng
09/09
Ông cố Giacôbê - Thân phụ Chị Thìn


GIÁO DÂN MONG ĐỢI GÌ NƠI BÀI GIẢNG CỦA LINH MỤC

Phần đông giáo dân khi tham dự thánh lễ đều quan tâm đến bài giảng của linh mục chủ tế. Nhiều người cẩn thận đến độ khi vào nhà thờ phải tìm cho được một chỗ ngồi gần bục giảng, để nghe cho rõ và để thấy cho tường vị giảng thuyết.

Những ai yêu mến Lời Chúa, muốn thăng tiến việc sống đạo của mình và muốn hiệp thông sâu xa vào đời sống đức tin của cộng đoàn cũng như của Hội thánh, thì luôn chăm chú lắng nghe bài giảng trong thánh lễ, nhất là thánh lễ ngày Chúa nhật và các lễ trọng. Quả thực, bài giảng trong thánh lễ luôn giữ một vai trò quan trọng đặc biệt trong đời sống đức tin của người Ki-tô hữu.

* TẦM QUAN TRỌNG CỦA BÀI GIẢNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN CỦA KI-TÔ HỮU

ĐTC Phan-xi-cô trong Tông huấn “Niềm Vui Phúc Âm” (Evangelii Gaudium) công bố ngày 26-11-2013 đã nhắc nhở như sau: “Bài giảng là viên đá thử để đánh giá sự gần gũi và khả năng truyền thông của người mục tử với dân chúng. Chúng ta biết các tín hữu rất coi trọng bài giảng và cả các tín hữu lẫn các thừa tác viên có chức thánh đều khổ sở vì các bài giảng: giáo dân vì phải nghe các bài giảng, còn các giáo sĩ vì phải giảng bài! Đây là trường hợp đáng buồn. …Bài giảng thực ra có thể là một trải nghiệm sâu đậm và vui sướng về Thần Khí, một cuộc gặp gỡ đầy an ủi với lời Thiên Chúa, một nguồn mạch canh tân và tăng trưởng thường xuyên” (số 135). [1]

Quả thực, tín hữu rất coi trọng bài giảng vì đối với họ bài giảng của linh mục là một “món ăn” không thể thiếu được của bàn tiệc Lời Chúa trong một thánh lễ. Món ăn càng ngon, càng bổ dưỡng, càng thích hợp thì đời sống đức tin và đức ái của người tín hữu càng được tăng trưởng, lớn mạnh.    

Chính vì vậy, ĐTC đã nhấn mạnh: “Bài giảng có tầm quan trọng đặc biệt vì bối cảnh Thánh Thể của nó: nó vượt quá mọi hình thức huấn giáo vì là thời điểm tột đỉnh trong cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa với dân Người, và dẫn tới việc hiệp thông bí tích. Bài giảng một lần nữa tiếp nối cuộc đối thoại mà Chúa đã thiết lập với dân Người. Người giảng thuyết phải biết lòng cộng đoàn của mình, để biết chỗ nào ước muốn của nó về Thiên Chúa đang sống động và cháy bỏng, cũng như chỗ nào mà cuộc đối thoại ấy trước kia rất thân thương nay đã bị thui chột và cằn cỗi” (số 137). [1]

Đối với người tín hữu, thông qua bài giảng, họ được đưa vào cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Thiên Chúa và dân của Người. Linh mục vừa là người hướng dẫn cuộc gặp gỡ, vừa là người khai mở cuộc đối thoại thân mật, vừa là trung gian truyền đạt Lời Chúa một cách hiệu quả. Thực tế cho thấy có nhiều người đã được biến đổi cách kỳ lạ sau một hai bài giảng của linh mục. 

Thực vậy, bằng đức tin và lòng mến của mình, người tín hữu theo dõi, lắng nghe vị linh mục giảng như là đang nghe Chúa nói vậy. Lời nói, dung mạo, cử chỉ, cung cách của ngài sẽ có sức hút đặc biệt nếu ngài đam mê rao giảng Lời Chúa và coi đây là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng và nghiêm túc. Có thể khẳng định như sau, “Công việc của linh mục quan trọng nhất trong mọi hoạt động của nhân loại. Ngài sinh ra đời chỉ để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Chức vụ trung gian ấy buộc ngài phải nói và nói có kết quả cho dân mình, truyền cho họ niềm tin và giáo huấn luân lý mà Con Thiên Chúa đã trao cho con người như là phương thế  để đạt đến hạnh phúc vĩnh cửu trên trời”. [2]

Tuy nhiên trên thực tế, không phải bài giảng nào của vị giảng thuyết cũng đem lại ơn ích và hiệu quả thiết thực như mong đợi. Có nhiều bài giảng gây phản cảm và tạo ra những phản ứng tiêu cực nơi người nghe. Chẳng hạn như lời của một vị Giám mục đã nói:

...Bài giảng lễ thì lòng thòng và chủ yếu là mắng mỏ, hăm dọa, khiển trách, thậm chí bôi bác giáo dân giữa nhà thờ. Bài giảng không dọn nói mãi không kết được khiến cha giống như máy bay không tìm được phi trường. Người nói thường không cảm thấy dài nhưng đối với người nghe là cả một sự chịu đựng. Nhất là nếu chúng ta không có lợi khẩu, chúng ta làm khổ giáo dân, biến họ thành nạn nhân hơn là nâng tâm hồn họ lên. Diễn đàn Lời Chúa là diễn đàn tình thương nhưng rất nhiều cha lợi dụng để trút hết căm hờn lên đầu giáo dân. Không gì mâu thuẫn bằng linh mục lại là thủ phạm gây chia rẽ trong giáo xứ bằng chính lời nói của chủ chăn. Chúng ta tìm cách trừng trị triệt hạ những người đối lập. Không làm được thì chúng ta đem ra giữa nhà thờ để bêu diếu bôi bác”. [3]

Do đó, đứng ở góc độ giáo dân, vì lợi ích của cộng đoàn, chúng ta có bổn phận đưa ra một số ý kiến mong đợi liên quan việc giảng thuyết của linh mục.

* TÍN HỮU CHỜ ĐỢI GÌ NƠI BÀI GIẢNG CỦA LINH MỤC?

Xin mạn phép đưa ra mấy đề nghị sau:

. Về thời lượng của bài giảng

Đa số giáo dân rất sợ bài giảng dài, nhất là đó lại là “bài giảng 3 D” (dài – dai – dở!). Khi phải nghe “bài giảng 3 D” thì ai cũng ngao ngán, buồn ngủ, chỉ muốn giảng viên kết thúc càng sớm càng tốt. Thực ra, bài giảng dài ngắn cũng tùy đối tượng nghe và tùy hoàn cảnh, nhưng theo các nhà chuyên môn về giảng thuyết thì nên giới hạn từ 10 đến 12 phút.

Về vấn đề này, ĐTC Phan-xi-cô đã dạy như sau: “Bài giảng không thể mang một hình thức giải trígiống như những bài giảng trên các phương tiện đại chúng, nhưng bài giảng phải ban sức sống và ý nghĩa cho cuộc cử hành. Nó là một thể loại đặc trưng, vì việc giảng dạy được đặt trong khung cảnh một cuộc cử hành phụng vụ; thế nên bài giảng phải ngắn và tránh mang dáng dấp của một bài diễn văn hay thuyết trình. Một giảng viên có thể thu hút sự chú ý của người nghe trong suốt một giờ đồng hồ, nhưng lúc ấy các lời giảng của họ trở thành quan trọng hơn việc cử hành đức tin. Nếu bài giảng quá dài, nó sẽ ảnh hưởng tới hai yếu tố đặc trưng của cử hành phụng vụ: sự cân bằng và nhịp độ” (số 137). [1]  

Mới đây thôi, vào chiều tối ngày 6-8-2019 lễ Chúa Hiển Dung, người viết có dịp theo dõi thánh lễ “Live” qua mạng Facebook, trong đó vị linh mục chủ tế đã dành khoảng từ 40 đến 45 phút để giảng. Ngài thao thao bất tuyệt, còn cử tọa thì xem ra cũng rất hào hứng nghe, vì vị giảng thuyết dùng mọi cách thức để hấp dẫn cử tọa qua việc kể lể đủ chuyện, chuyện mình chuyện người, chuyện đông chuyện tây, chuyện trên trời chuyện dưới đất…xen kẽ chút Lời Chúa. Tuy nhiên, xem ra diễn giả đã đi quá xa và hầu như quên mất chủ đề Phụng Vụ của ngày lễ. Có cảm tưởng như đây là một bài thuyết trình về sống đạo hay một bài giảng phòng hơn là bài giảng thánh lễ.  

Liên quan bài giảng quá dài, một tác giả đã viết như sau: “Một sai lầm thường gặp trong các bài giảng thiếu chuẩn bị là quá dài, thậm chí có thể nói là “dài quá đáng”, các bài giảng được chuẩn bị ít dài hơn nhưng nhiều khi cũng dài. Trong thời gian tập sinh, các chủng sinh Dòng Tên được dạy: “Ngày chúa nhật không dài quá 10 phút, trong tuần không dài quá 5 phút”. Người ta còn nói:“Năm phút đầu tiên, chúng ta lay động tâm hồn, thời gian còn lại thì những người ngồi sau lúc lắc”. Người ta còn ví von: “Bài giảng phải như chiếc váy ngắn: đủ dài để che cái cần phải che, nhưng khá ngắn để tạo hấp dẫn”. [4]

. Về cấu trúc bài giảng

Một vị giám mục quan tâm nhiều tới việc giảng thuyết đã chia sẻ kinh nghiệm như sau: “Một bài giảng được dàn dựng cách khoa học với các tư tưởng đã được chọn lựa về Thiên Chúa và về con người sẽ làm cho người nghe cảm thấy dễ chịu bởi vì thính giả thấy mình được kính trọng do được phục vụ bởi những tư tưởng có chất lượng và cách sắp xếp có khoa học”. [5]

Một bài giảng được soạn thảo một cách cẩn thận sẽ không bỏ qua việc dàn dựng thiết kế bố cục sao cho ăn khớp với chủ đề và thời lượng cần có. Cử tọa sẽ được dẫn dắt từng bước vào lộ trình của bài giảng thông qua lời dẫn nhập, rối đến phần triển khai đề tài, sau cùng là kết thúc bằng việc nhắc lại ý chính, chủ điểm của bài giảng.

Trên thực tế có nhiều vị giảng thuyết, vì không đầu tư nhiều cho bài giảng nên bắt đầu giảng là bắt đầu đi lòng vòng, kể hết chuyện này đến chuyện kia, trong khi cử tọa kiên nhẫn chờ đợi xem ngài sẽ nói gì, vấn đề gì là trọng tâm, điều gì là quan trọng trong sứ điệp của bài giảng. Cuối cùng, vị giảng thuyết đã đi trật đường rầy lúc nào không biết, vì một bài giảng không mở, không dẫn, không triển khai và không kết thúc. 

Quả thực, khi nghe giảng, giáo dân mong đợi một bài giảng có chủ đích, có chủ điểm. Họ muốn diễn giả luôn xoáy vào trọng tâm vấn đề để họ có thể nắm bắt được ý hướng Phụng vụ của Thánh lễ đang tham dự. Nếu khi soạn bài giảng, linh mục biết mình sẽ nói gì, nói như thế nào, thì giáo dân khi nghe giảng cũng muốn rằng họ đang được nuôi dưỡng bằng lương thực nào, chất lượng ra sao. Nhiều diễn giả thích nói lời mình hơn Lời Chúa, trong khi giáo dân rất đói khát Lời Chúa.

Linh Mục Christopher Chatteris S.J, khi đề cập đến việc giảng thuyết, đã dựa trên kinh nghiệm và các tác phẩm của ĐGM Kenneth Untener, nguyên giám mục giáo phận Saginaw, Michigan (Hoa Kỳ) cho biết là trong tác phẩm “Giảng tốt hơn”, ĐGM Untener đưa ra vài gợi ý được lấy ra từ những buổi phỏng vấn một số tín hữu trong giáo phận. Ngài viết rằng, người Mỹ chú trọng đến hiệu quả công việc, nên thường không thích những bài giảng nặng nề, dài dòng. Đừng nhập đề vòng vo, đặc biệt khi nó chẳng liên quan gì đến sứ điệp chính mà ta muốn trình bày. Ngài khuyên, Đi ngay vào vấn đềĐiều này cũng hợp lý thuận tình thôi, vì bài giảng cần phải lấy từ Thánh Kinh. Người nghe thường dị ứng, khó chịu nếu bài giảng bắt đầu với một câu chuyện chẳng ăn nhập gì, hoặc với một truyện cười không thích hợp, hay mở đầu bài giảng bằng một thông báo…

Bên cạnh đó, cũng theo ĐGM Untener, để bài giảng được ngắn gọn, ngài khuyên chỉ nên khai triển một ý chủ đạo hay một “điểm son nào đó – một viên ngọc quý – sự sống của bài. Thay vì theo đuổi nhiều ý tưởng phụ thuộc. Thật là vô lý nếu biết rằng càng nói nhiều người ta càng không nghe mà lại cứ nói thêm. Điều quan trọng là trình bày một điểm chính thật kỹ càng, một điểm thôi nhưng có chiều sâu. Giảng thuyết là công việc lao động thực sự - một lao động của tình yêu, của học hỏi, của cầu nguyện, của thảo luận, và của suy tư.

Thiết nghĩ một bài giảng được dàn dựng một cách khoa học, được thiết kế với cấu trúc rõ ràng, thì sẽ tránh được sự nhàm chán, thất vọng nơi người nghe. Vì quả thực, giáo dân muốn linh mục khi giảng nên đi thẳng vào trọng tâm bài giảng và chỉ nói những gì cần phải nói mà thôi. Lạc đề là điều mà cử tọa dễ nhận ra. Nguyên tắc mong đợi, đó là “Diễn giả phải làm chủ đề tài của mình” (Albert J. Beveridge).

. Về ý hướng bài giảng

Khi xưa, thánh Phê-rô cũng đã dạy: “Ai giảng, hãy giảng Lời Thiên Chúa” (1Pr 4,11). Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều vị giảng thuyết lại mê man nói lời mình hơn là chia sẻ Lời Chúa. Có nhiều bài giảng chỉ toàn kể những tin tức giật gân, kể những câu chuyện riêng tư vụn vặt, nhất là lại đi sâu vào những câu chuyện tiếu lâm, hài hước không ăn nhập gì tới sứ điệp Lời Chúa cần truyền đạt. Giáo dân không quan tâm những chuyện bên lề bên ngoài đó. Họ đến nhà thờ, tham dự thánh lễ, nghe giảng là để được biến đổi nhờ ơn Chúa Thánh Thần và nhờ tác động của Lời Chúa. 

ĐTC Phan-xi-cô đã nhắc nhở các mục tử, như sau: “Ai muốn giảng thì trước tiên phải để cho lời Thiên Chúa lay động mình một cách sâu xa và thấm nhập vào trong đời sống hằng ngày của mình. Như vậy, giảng chủ yếu là ở hoạt động quá sâu xa và hiệu quả ấy, đó là “thông truyền cho người khác điều mình đã chiêm ngắm”. Vì tất cả các lý do trên, trước khi sửa soạn những gì mình sẽ thực sự nói ra khi giảng, chúng ta cần để cho lời thâm nhập chúng ta, cũng là lời sẽ thâm nhập người khác, vì đó là một lời sinh động và sắc bén, như thanh gươm “xuyên thấu chỗ phân cách tâm linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt 4:12). Đây là điều rất quan trọng trong hoạt động mục vụ. Ngày nay cũng vậy, người ta thích nghe những chứng nhân hơn: họ “khát sự chân thực” và “đòi có những người rao giảng Tin Mừng nói cho họ về một vị Thiên Chúa mà mình biết và thân quen, như thể đang nhìn thấy Người”. (số 150) [1]

ĐTC nói thêm, “Người giảng có nhiệm vụ tuyệt vời nhưng khó khăn là kết nối những trái tim yêu thương, trái tim của Chúa và của dân Người. Đối thoại giữa Thiên Chúa với dân của Người kiện cường giao ước giữa họ và củng cố tình bác ái. Trong bài giảng, lòng các tín hữu giữ thinh lặng để nghe Chúa nói. Chúa và dân Người trực tiếp nói chuyện với nhau bằng vô vàn cách thức mà không cần đến trung gian. Nhưng trong bài giảng, họ muốn có người làm trung gian và bày tỏ tình cảm của mình sao cho sau bài giảng, mỗi người có thể quyết định mình sẽ tiếp nối cuộc đối thoại theo cách nào mình thích”. (số 143) [1]

. Về cách thức giảng

Nhiều nhà giảng thuyết khi vừa bước lên giảng đài, vội lật cuốn sổ tay ra và bắt đầu thao thao bất tuyệt, như một máy ghi âm, cho đến khi kết thúc một cách đột ngột, nhạt nhẽo, không một lời chào chấm dứt bài giảng cùng với lời nhắn nhủ nào đó mà cử tọa đang mong đợi. 

Về điều này, tác giả Thomas V. Liske, giáo sư và nhà hùng biện, đã viết như sau: “...Có nhiều vị đọc thuộc lòng trên tòa giảng. Nếu vô tư quan sát, ta sẽ thấy tình trạng ấy thật kỳ cục: diễn giả đọc bài do mình soạn hay người khác viết hay bài mình tóm tắt, trong khi cộng đoàn bị giọng đọc buồn tẻ ấy ru ngủ, chán chường trước cảnh thiếu vắng quen thuộc với sự tiếp cận tươi mát những chân lý của cuộc sống và tôn giáo...nên chỉ còn biết nhẫn nại chịu đựng, lơ đãng nhìn các hình ảnh trên tường hoặc trên bàn thờ để chờ đợi, chờ đợi cái kết thúc ảm đạm. Trên tòa giảng cũng như dưới hàng ghế đều một cảnh nhẫn nại chịu đựng để rồi cùng thở ra nhẹ nhõm khi kết thúc”. [2]   

Một bài giảng tốt, ngoài nội dung hàm chứa trong đó, cũng cần được người giảng vận dụng những cách thức cần thiết để truyền đạt sao cho người nghe được thấm vào tận bên trong tâm hồn mình. Những cách thức đó, nói cách chuyên môn, đó là những kỹ năng truyền thông. Giảng cũng thuộc về một dạng truyền thông đại chúng. Vì thế vị giảng thuyết không thể không quan tâm tới những yếu tố có tầm ảnh hưởng khá lớn tới việc truyền đạt thông điệp. Như cử điệu, giọng nói, ánh mắt, nụ cười, ngôn ngữ cơ thể, sự tương tác giữa người nói và cử tọa vv. ĐTC Phan-xi-cô thì cho đó là sự gần gũi của giảng viên, sự ấm áp của âm giọng, sự đơn sơ không phô trương trong cách nói, và sự vui vẻ trong các điệu bộ của giảng viên (số 140). [1]

Quả thực, việc giảng thuyết của linh mục trên tòa giảng đích thực là một “nghề” nói trước công chúng, nó đòi hỏi diễn giả phải có bản lãnh nghề nghiệp, thật tự tin, bình tĩnh và nhạy bén. Nếu không, việc truyền thông trên tòa giảng sẽ gặp trở ngại không nhỏ. Giáo sư hùng biện Thomas V. Liske đã viết: “Không có nghề nào phải nói nhiều hơn nghề linh mục. Ta có thể nói không ngoa chút nào rằng linh mục sống để nói. Bên cạnh ảnh hưởng mạnh mẽ của gương sống và kinh nghiệm, lời giảng thuyết của linh mục là sức mạnh, hay phương thế chủ yếu giúp cho sứ vụ của ngài được thành công”./. [2]

Aug. Trần Cao Khải

- - - - - - - - -

[1] ĐTC Phan-xi-cô - Tông huấn “Niềm Vui Phúc Âm” (Evangelii Gaudium) – Bản dịch UB LBTM/HĐGM.VN - Nguồn: simonhoadalat.com

[2] Thomas V. Liske -  “Thành công trên tòa giảng” - ĐCV Á Thánh Quý  Cần Thơ 1995

[3] ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh - Tĩnh tâm linh mục thường niên Gp Đàlạt tháng 2-2009

[4] Bài “Giảng lễ - Mười sai lầm không nên phạm khi giảng lễ”, bản dịch của Nguyễn Tùng Lâm – Nguồn FB: LM Mi Trầm


[5] ĐGM GB Bùi Tuần - Chủ đề “Truyền giáo” - Tĩnh tâm linh mục Gp Long Xuyên 1990

CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN - C

 Nhiệt độ của trái đất có chiều hướng nóng dần lên. Đó là một điều đáng sợ. Nhưng điều đáng sợ hơn lại là sự lạnh lùng giữa người với người.
Con người cần cơm bánh và giải trí, nhưng con người còn cần sự nâng đỡ cảm thông.
Nhân loại sống được là nhờ tình thương ấm áp. Vậy mà băng giá của lạnh đạm dửng dưng vẫn tồn tại khắp nơi trên mặt đất. Băng giá nằm ngay nơi lòng con người.
Đức Giêsu đã khẳng định sứ mạng của Ngài: Ngài đến để ném lửa trên mặt đất, và Ngài ước mong, phải chi lửa ấy đã bùng lên.
Ngọn lửa Đức Giêsu muốn nhóm lên không phải là ngọn lửa của án phạt và hủy diệt, không phải là thứ lửa từ trời mà Gioan và Giacôbê định xin đổ xuống trên một làng của xứ Samari. Đây là ngọn lửa vẫn bừng cháy trong tim Ngài, lửa của Thánh Thần, lửa của yêu thương, lửa hâm nóng hai môn đệ Emmau đang tuyệt vọng.
Chúng ta cần được ngọn lửa của Đức Giêsu chạm đến, cần được Ngài làm bừng sáng lên những sức mạnh tiềm ẩn nơi ta, để chúng ta trở thành ánh lửa cho thế giới.
“Phải chi lửa ấy đã bùng lên!”
Chúng ta được mời gọi để thực hiện niềm ước mong mà Đức Giêsu đã suốt đời ôm ấp, đó là làm cho thế giới nên ấm áp hơn vì con người biết sống cho Thiên Chúa và cho nhau.
Gieo rắc ngọn lửa và ánh sáng là chấp nhận bị từ khước và đe dọa. Đức Giêsu linh cảm những gì sẽ xảy ra cho đời mình. Ngài sẽ phải chịu một phép rửa kinh khủng, sẽ phải dìm mình thật sâu trong nỗi khổ đau.
Hôm nay, Ngài mời chúng ta ném lửa trên mặt đất và chấp nhận đối đầu với sức mạnh của bóng tối.
Khi Đức Giêsu bị treo trên thập tự, khi Ngài bị giam trong mồ tối, bóng tối tưởng như đã nuốt chửng được Ngài. Nhưng ngọn lửa phục sinh đã bừng lên giữa đêm đen.
Đó là niềm hy vọng của chúng ta, những người vẫn còn phải hăng say chiến đấu để đẩy lui bóng tối ra khỏi mọi nơi, mọi chỗ, bóng tối của bất công, sa đọa và tuyệt vọng, bóng tối của hận thù, của nạn mù chữ, bóng tối của nghèo nàn lạc hậu… Bóng tối do khép lại cánh cửa của lòng mình. Bóng tối ở ngay trong lòng tôi.
Có lúc chúng ta sợ hãi bóng tối dầy đặc, mà ngọn lửa của mình lại yếu ớt.
Nếu một tỷ Kitô hữu đều là những ngọn lửa thì bóng tối sẽ bị đẩy lùi khỏi mặt đất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thế giới hôm nay vẫn còn nhiều bóng tối. Theo ý bạn, đâu là những bóng tối đáng được chúng ta quan tâm hơn (những bóng tối nơi gia đình, ngoài xã hội và trong Giáo Hội)?
Bạn có kinh nghiệm gì khi phải đương đầu với bóng tối của sự dữ, ở ngoài bạn và ở trong bạn? Có khi nào bạn thắng được bóng tối không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
Xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa,
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được
Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

BÌNH THƯỜNG HAY BẤT THƯỜNG?

Mỗi tu sĩ đều có một câu chuyện ơn gọi riêng với nhiều tình tiết không ai giống ai. Thế nhưng tất cả mọi câu chuyện đó đều có một điểm chung là được bắt đầu từ sự ngạc nhiên.

Chỉ khi nào con người còn biết ngạc nhiên, khi đó cuộc sống mới còn những điều thú vị. Ngược lại, nếu mọi thứ được cho là quen thuộc hay quá đỗi bình thường thì không có gì phải thắc mắc, không có gì phải tìm hiểu và không có gì là mới lạ, hấp dẫn.

Trong con mắt đức tin, cuộc đời là chuỗi ngày đầy những ngạc nhiên; ngạc nhiên không phải chỉ vì có những sự kiện xảy đến bất ngờ mà còn là vì người tu sĩ nhận ra Chúa đang không ngừng làm công việc đổi mới nơi chính bản thân họ, nơi những người khác và nơi mọi tạo vật nói chung. Để có thể dễ dàng ngạc nhiên hay nhạy bén trước tác động của Chúa như vậy, mỗi người cần mang lấy tâm tình của trẻ thơ: đơn sơ mở ra đón nhận mầu nhiệm Nước Trời được mặt khải trong những điều nhỏ bé nhất.

Đó hoàn toàn không phải là thái độ lãng mạn bay bổng như đang sống trên mây, nhưng là chiều sâu thiêng liêng giúp con người nhìn về thực tại bằng con mắt đức tin. Thái độ ngược lại chính là đóng khung thực tại trong tầm hiểu biết hẹp hòi đầy khiếm khuyết và định kiến của mình. Loại người này thường có những suy nghĩ kiểu như tôi sinh ra có tính sẵn như vậy rồi, không thể và cũng không cần phải thay đổi; tôi biết rõ anh/chị đó rồi, từ xưa đến giờ vẫn thế! Sẽ không thể có thay đổi bước ngoặc trong cuộc đời nếu con người không biết phản tỉnh để nhận ra thông điệp đức tin qua những dấu chỉ làm họ ngạc nhiên trong đời sống thường ngày.

Mỗi tu sĩ đều có một câu chuyện ơn gọi riêng với nhiều tình tiết không ai giống ai. Thế nhưng tất cả mọi câu chuyện đó đều có một điểm chung là được bắt đầu từ sự ngạc nhiên. Có người ngạc nhiên vì biết bao nhiêu điều tốt đẹp Chúa đã ban cho mình một cách nhưng không; lòng họ trào dâng tâm tình biết ơn, muốn hiến thân cho đi cách nhưng không những gì đã được nhận lãnh. Người khác vì được đánh động bởi hình ảnh những người nghèo khổ, bệnh tật hoặc bị bỏ rơi nên muốn chung tay xoa dịu nỗi đau của đồng loại. Có người khác nữa xuất thân từ một đứa trẻ hư hỏng được cưu mang dạy dỗ nên người, qua kinh nghiệm đó họ ngạc nhiên trước sức mạnh chữa lành của tình thương nên muốn dấn thân trong việc giáo dục thanh thiếu niên. Lại có người ngạc nhiên bởi chính những người ngạc nhiên như trên; họ thắc mắc tại sao có những người vui vẻ hy sinh cả đời mình phục vụ người khác và đâu là nguồn sức mạnh giúp họ có thể đảm nhận những công việc đầy thách đố như vậy.

Nói chung nhờ biết ngạc nhiên hay nhận ra những điều bất thường nơi những sự kiện bình thường mà người ta mới có động lực tìm hiểu; nhờ tìm hiểu người ta mới nhận ra được giá trị ẩn giấu đằng sau những điều khiến họ ngạc nhiên; chính giá trị được tìm ra đó sẽ thôi thúc họ hoán cải thay đổi đời sống theo một hướng mới. Đối với người tu sĩ thì giá trị được tìm thấy là chính Chúa, là kho tàng quý giá nhất và là nguồn hạnh phúc duy nhất của cả cuộc đời họ. Khi đời sống của tu sĩ thể hiện được niềm vui của sự gặp gỡ đó thì chính họ lại tạo nên sự ngạc nhiên cho những người họ tiếp xúc. Cứ như vậy thế giới này sẽ tràn ngập hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, vì người ta nhận ra chính Chúa đang đổi mới mặt đất này qua những chứng nhân của niềm vui Tin Mừng.

Tóm lại, con người cần biết đặt câu hỏi vì ngạc nhiên về những điều bất thường. Thái độ khi đặt câu hỏi chính là lòng khao khát mở ra với mầu nhiệm đức tin mà trí khôn con người không bao giờ hiểu thấu. Càng đặt câu hỏi con người lại càng gặp phải nhiều vấn đề đáng ngạc nhiên khác mà không tìm được câu trả lời rốt ráo; càng như vậy con người lại càng được dẫn đi sâu hơn vào trong tương quan mầu nhiệm với Thiên Chúa. Khi đó con người nói chung và người tu sĩ nói riêng sẽ vui mừng nhận ra Thiên Chúa đã bao bọc che chở thân phận nhỏ bé của họ trong tình yêu cao vời như thế nào.

Lạy Mẹ Maria, trong tâm tình phó thác vào kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, Mẹ luôn suy đi nghĩ lại trong lòng những biến cố làm Mẹ ngạc nhiên để tìm kiếm ý Chúa. Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ mở lòng ra với những gì Chúa muốn nói với chúng con qua những điều làm chúng con ngạc nhiên, và nhất là xin Mẹ cầu bầu cho chúng con luôn sẵn sàng đáp lời “xin vâng” như Mẹ trước tiếng gọi tình yêu của Thiên Chúa. Amen

Giuse Lê Đắc Thắng SJ (dongten.net)

TÂM TRẠNG CÔ ĐƠN: NGUYÊN DO CỦA NHIỀU BẤT HẠNH

Nếu chúng ta không hiểu và không nắm bắt được nỗi cô đơn của mình, chắc chắn nó sẽ không thương xót đẩy chúng ta vào tình trạng lộn xộn của hành động khi chúng ta tìm cách lấp đầy các đòi hỏi của cô đơn. 

Tâm trạng cô đơn, nếu không hiểu được, có thể là nguyên do của nhiều bất hạnh và áp lực không giải thích được.
Hiện hữu nhân tính không phải là một điều đơn giản. Tâm hồn của chúng ta là chiếc vạc với đủ loại cảm xúc: thao thức, trống rỗng, hoài niệm, khát khao, xa lánh, hoang tưởng, cô đơn. Khi các sự kiện của cuộc sống khuấy chiếc vạc lên, các cảm giác này nổi lên bề mặt, và chúng ta sẽ thấy mình bị đẩy, bị kéo đi theo nhiều hướng cùng một lúc. Nếu không hiểu được thực sự nó là gì, kết quả sẽ là hỗn độn và áp lực đau đớn. Và nó dễ dàng dẫn đến nhiều bất hạnh không thể giải nghĩa được khi chúng ta tự hỏi vì sao chúng ta quá bồn chồn và chia rẽ, vì sao chúng ta không đơn giản yên ổn dừng chân và thư giãn. Tại sao tâm trí và tâm hồn chúng ta phải quá phức tạp và bồn chồn? Thông thường, chúng ta lo lắng về điều này mà không có một câu trả lời chính đáng hỗ trợ. Thường thì sự lo lắng này khơi lên nhiều hoài nghi đối với chính mình khi chúng ta tự hỏi liệu mình có phải là một kẻ thèm khát tình yêu, ham muốn tình dục quá mức, bán hoang tưởng, và bất bình thường. Một nhận thức đúng đắn về những gì cô đơn tô vẽ lên tâm hồn con người sẽ giúp chúng ta nhiều trong việc hiểu được rằng những xung năng thao thức bên trong này có lẽ chỉ đơn giản muốn nói rằng, chúng ta tồn tại cách cảm thức và chúng ta là một con người với nhân tính không thể thay đổi được!
Cô đơn có thể hủy hoại hoàn toàn nhân cách của chúng ta.
Từ những ví dụ trên, chúng ta thấy nỗi cô đơn nguy hiểm đến dường nào. Những mối nguy vốn có trong cô đơn có thể tóm gọn lại như sau, rốt cùng, nếu không được nhận thức và được sử dụng cách đúng đắn, cô đơn có thể hủy diệt nhân cách chúng ta.
Tôi sẽ làm sáng tỏ điều này qua ví dụ trích từ tác giả thế kỷ mười sáu, thánh Gioan Thánh Giá.
Trong bài luận trứ danh của ngài, Lên đỉnh Carmel (The Ascent of Mount Carmel), thánh Gioan đã vạch ra kiểu mẫu của sự hủy hoại con người.7  Ngài liên kết nó với điều mà ngài gọi là “nhạy cảm thất thường”, một cụm từ có thể chuyển dịch khôn khéo thành “cô đơn đi đến quá khích.” Thánh Gioan nói rằng bất cứ khi nào tính nhạy cảm trở nên thất thường (tâm trạng cô đơn của chúng ta hoạt động mà không được kiểm tra), thì chúng ta đang đứng trong mối nguy hủy hoại các nét chính của nhân cách. Có năm nấc thang tan rã trong tiến trình tự hủy hoại.
1-. Chúng ta trở nên “Chán chường và Mệt mỏi” 
Nếu chúng ta không hiểu và không nắm bắt được nỗi cô đơn của mình, chắc chắn nó sẽ không thương xót đẩy chúng ta vào tình trạng lộn xộn của hành động khi chúng ta tìm cách lấp đầy các đòi hỏi của cô đơn. Và thường là, tất thảy đều xảy ra chính xác như vậy. Khi cố để xoa dịu sự náo động của thèm khát, chúng ta nhảy từ việc này qua việc khác. Chúng ta lao mình vào một thứ không bao giờ kết thúc và bất mãn lượn quanh tiệc tùng, dạ hội, bia rượu, những cuộc đối thoại tâm linh (và nếu chúng ta có điều kiện thì chúng ta dùng đến cả biện pháp điều trị tâm lý), chúng ta cố gắng để lấp đầy lỗ hổng nội tâm, một lỗ hổng không thể lấp đầy, và cố để thỏa mãn cơn đói khát không thể thỏa mãn được.
Quá thường xuyên, chúng ta thậm chí không biết được điều chúng ta muốn, hay thực sự là không chính xác nhận ra được chúng ta đang tìm kiếm cái gì. Chúng ta đơn giản làm những gì đến một cách tự nhiên! Và cái gì đến tự nhiên, đó là trạng thái bồn chồn đẩy chúng ta vào mớ hỗn độn của những hành động căng thẳng. Chúng ta nói chuyện, chúng ta uống, chúng ta làm việc, làm tình, nhưng chúng ta không thấy thỏa mãn, khi mà nỗi đau tâm hệ lôi kéo chúng ta như thế này, bỏ mặc chúng ta trong một tình trạng không có bình an và ngơi nghỉ, đó là lúc chúng ta liều lĩnh kiếm tìm một ai đó hay một điều gì đó mang lại cho chúng ta cảm giác trọn vẹn.
Chúng ta trở nên giống như nhân vật phản diện trong thần thoại Hy Lạp, Sisyphus, người bị các thần linh kết án phải lăn một khối đá ngược dốc mãi mãi. Ngay khi ông lăn đến đỉnh, khối đá lăn xuống chân núi, và Sisyphus bất hạnh phải chạy xuống chân núi để lăn nó lên trở lại. Hình ảnh này là một điều chán nản, một “chán chường và mệt mỏi.” Dạng mưu cầu thất bại này là điều mà thánh Gioan Thánh Giá đã nói về xu hướng mà sự cô đơn điều khiển chúng ta, nếu chúng ta không nắm bắt được nó cho đúng đắn. 
2- Chúng ta trở nên “Thống khổ và Ưu phiền”
Nếu chúng ta không nắm vững được tâm trạng cô đơn ở giai đoạn đầu tiên, thì chúng ta cũng như Sisyphus, kết cục là bị cưỡng bách phải thực hiện một hành động vô ích và mệt mỏi. Cuối cùng điều xảy đến là mệt mỏi từ việc quá chán nản sẽ trở nên một nỗi đau mãi mãi, giống như chiếc răng sâu của tâm thần. Tâm trạng chán chường mà chúng ta trải nghiệm không còn đến từng cơn và không còn chữa trị được bằng một giấc ngủ đêm hay một ngày nghỉ dưỡng. Đúng hơn, nó trở thành một chán chường mà nỗi đau của nó triền miên không dứt, lan tràn đến từng đốt tủy của chúng ta. Và nếu tâm trạng cô đơn vẫn không được xem xét lại, thì sớm muộn, nỗi đau sẽ gây nên nguy hại thực sự của nó. 
3- Chúng ta trở nên “U ám và Mù tối”
Điều này, thánh Gioan ngụ ý rằng nỗi đau mà chúng ta cảm nhận sẽ từ từ bắt đầu phủ mây đen trên trí tuệ và nhận thức. Như chúng ta biết, bất cứ nỗi đau hay đam mê dữ dội nào cũng tô màu lên lối suy nghĩ của chúng ta. Ví dụ như, ham muốn và giận ghét có thể làm cho chúng ta nhìn mọi thứ từ một quan điểm khác hẳn lúc chúng ta bình thường. Tâm trạng cô đơn quá đáng cuối cùng sẽ gây nên điều tương tự như vậy. Nó sẽ làm rối loạn nhận thức và nhận định của chúng ta, làm cho chúng ta trở nên duy lý, yếm thế và nhìn mọi thứ không còn rõ ràng.
Điều này rõ ràng và dễ dàng dẫn đưa chúng ta đến mức thứ tư.
4- Chúng ta trở nên “Nhơ uế và Biến chất.”
Điều tác động ở mức độ này là diện mạo thẩm mỹ của chúng ta. Một khi nhận thức và phán định của chúng ta bị suy yếu, thì chẳng bao lâu, chúng ta không còn là một người đẹp đẽ nữa. Một con người luôn mãi lý luận, sống trong yếm thế, liên tục than phiền, nhận định không công minh, và nhìn thế giới cách tiêu cực, méo mó, một con người như vậy không phải là một con người đẹp đẽ. Và rồi, đây là mức độ mà tâm trạng cô đơn, nếu không được xem xét lại, cuối cùng sẽ điều khiển chúng ta. Và với tiềm lực của nó, thậm chí mó có thể đưa chúng ta xa đến…
5- Chúng ta trở nên “Yếu đuối và Lãnh đạm.”
Điều này, thánh Gioan muốn nói đến sự tự do và năng lực ý chí của chúng ta, đến khả năng những gì chúng ta muốn và hành động đúng theo bản thân mình. Ngài nói rằng nếu tiến trình sa đọa này không được xem xét lại từ bốn mức độ đầu, thì cuối cùng sự tự do và nhân cách của chúng ta sẽ suy yếu vô cùng, và có thể bị hủy hoại hoàn toàn. Điều xảy đến là kết cục chúng ta thực hiện những hành động không liên quan gì đến cái tôi của chính chúng ta. Ví dụ như, không một ai thức dậy trong cống nước sau cơn say, không một ai nhảy cầu, không một ai xa lánh bạn bè với thái độ chua cay,  nhạo báng thực sự họ muốn làm như vậy. Chúng ta làm những điều này chỉ khi chúng ta không còn có thể làm bất kỳ điều gì khác, chỉ khi chúng ta đã ở điểm tận cùng của một diễn tiến cướp đi sự tự do để là chính mình và là những gì mình muốn. Chúng ta làm những điều này khi ý chí của chúng ta, vì một lý do nào đó, không thể cho chúng ta bày tỏ bản thân như con người thật của chính mình.
Vì thế, chúng ta nhìn ra nỗi cô đơn này, nếu không được xem xét lại, cuối cùng có thể hủy hoại tự do của chúng ta. Khi điều này xảy đến, nhân cách chúng ta bị hủy diệt hoàn toàn, và cũng từ đó chúng ta không thể điều khiển được chính con người của mình.
Từ điều này, cũng như từ những ví dụ khác, chúng ta nhìn ra được rằng tâm trạng cô đơn có tiềm năng nguy hiểm đến như thế nào. Tuy nhiên, mối nguy còn lớn hơn nếu chúng ta không chịu chấp nhận các vấn đề này phát xuất từ nỗi cô đơn và đặc biệt khi chúng ta thiếu thành thật để chấp nhận mình thực sự cô đơn, chấp nhận không phải mọi thứ đều tốt đẹp, và mãnh lực bùng nổ đó ngự trị không xa trong lòng chúng ta. Khi đó thay vì đùa giỡn với chính mình và với người khác, khoác cho nỗi đau thực sự của mình một lớp mặt nạ, thì chúng ta thực sự đang từ từ tạo cho mình một áp lực mạnh mẽ bên trong, cuối cùng nó sẽ hoạt động ra bên ngoài, và khi không còn chống đỡ nỗi, nó sẽ làm cho chúng ta suy sụp, hay bi thảm thay, sẽ từ từ làm mệt mỏi bản thân, làm xấu đi các khuynh hướng của mình, làm mất đi nét đẹp, và hủy diệt tự do của chúng ta.
Tâm trạng cô đơn không phải là môt mãnh lực mà chúng ta có thể không quan tâm đến nó. Vì thế, điều quan trọng vô cùng là chúng ta phải tìm cách để hiểu được nó để tìm ra nguồn cội của nó, ý nghĩa của nó và cách để chúng ta có thể giải quyết nỗi cô đơn cho hiệu quả.
Trích sách Quả tim thao thức, The restless heart, Ronald Rolheiser 

J.B. Thái Hòa dịch