Tìm Người Để Xưng Tội

 

                                    TÌM NGƯỜI ĐỂ XƯNG TỘI

 


Có lẽ hơn hết thảy, trong vô thức, chúng ta đều mong tìm được một cha giải tội, một người mà chúng ta có thể trải lòng ra, hoàn toàn không hề giấu diếm điều gì, giải bày hết các hoang mang trong lòng, thừa nhận tội lỗi của mình mà không e ngại.  Sâu bên trong cuộc kiếm tìm người tri âm của chúng ta là kiếm tìm một người để xưng tội.  Nhưng tìm một cha giải tội tốt không phải là chuyện dễ dàng.  Trong cuốn tiểu thuyết mới nhất Brooklyn, tác giả Colm Toibin đưa ra một trong những lý do như sau:

 

Nhân vật chính, Eilis, một cô gái trẻ người Dublin, đến New York và phải lòng chàng trai Tony.  Sau vài tháng yêu nhau, Eilis phải trở về Ireland vì em gái Rose của cô qua đời.  Cảm thấy bất an và sợ rằng Eilis sẽ không quay lại, Tony thuyết phục cô kết hôn theo thủ tục dân sự với anh trước khi đi.

 

Trở lại Dublin, ở với mẹ, đau buồn trước cái chết của người em gái và phải trì hoãn việc trở lại New York vì đám cưới của một người bạn, Eilis được chàng trai Jim Farrell đeo đuổi, cô hẹn hò nhiều lần với anh mà không nói với anh về người chồng Mỹ của mình.  Nhưng cô bị ám ảnh bởi việc giấu diếm này và đau khổ không biết nên xử sự ra sao.  Điều cô tha thiết muốn làm nhất là nói cho anh biết bí mật, giải bày mớ rối rắm trong lòng mình, để anh là người nghe cô xưng tội, và nhờ anh giúp cô giải quyết chuyện này, nhưng sự ngây thơ trong trắng của anh khiến cô ngần ngại.  Toibin viết: Liệu cô có thể nào nói cho Jim biết những gì cô đã làm chỉ trước đó một thời gian ngắn ở Brooklyn?  Người ly hôn duy nhất mà ai trong thành phố đó cũng biết là Elizabeth Taylor và có lẽ vài siêu sao màn bạc khác.  Cũng có thể giải thích được với Jim nguồn cơn khiến cô đi tới hôn nhân, nhưng anh là một người chưa từng bao giờ sống ở đâu khác ngoài Dublin.  Cô nghĩ, sự ngây thơ và lịch duyệt của anh, hai đức tính khiến người ta cảm thấy dễ chịu khi gần bên anh, thật ra có thể lại là những hạn chế, đặc biệt nếu nêu ra điều gì đó chưa từng nghe nói đến và ngoài sức suy nghĩ hay trải nghiệm của anh như chuyện ly hôn.  Cô nghĩ, tốt nhất là gạt toàn bộ chuyện này ra khỏi tâm trí.

 

Doris Lessing từng nhận xét về George Eliot rằng Eliot chắc hẳn sẽ viết hay hơn, sâu sắc hơn, nếu bà không quá đức hạnh như vậy.  Dường như sự ngây thơ có thể là những hạn chế, điều cản trở thông cảm và thấu hiểu, như cả Eilis và Doris Lessing đều lo sợ.  Nhưng có đúng như vậy không?

 

Ngày nay có cả một luồng tư tưởng phổ biến mạnh mẽ cho rằng đúng như vậy.  Bạn sẽ thấy những dạng thô của điều này ở chủ nghĩa khắc kỷ trong văn hóa của chúng ta về sự trinh bạch và ngây thơ trong trắng, mà cả hai đều được đồng nhất một cách giản đơn quá mức với ngây thơ khờ khạo và chưa trưởng thành.  Trên thực tế, việc thiếu kinh nghiệm tình dục được đặc biệt coi là khờ khạo nhất trong những sự ngây thơ khờ khạo.  Phổ biến nhất là con tính đơn giản đánh đồng trải nghiệm với “việc từng hẹn hò quanh quất” và đánh đồng “từng hẹn hò quanh quất” với việc hiểu đời.  Các sách giáo lý xưa của chúng ta dạy rằng khi A-đam và E-và ăn trái cấm, tâm trí họ trở nên tăm tối.  Suy nghĩ phổ thông ngày nay nhấn mạnh rằng lúc đó họ lại sáng mắt ra, cái trải nghiệm đó, dù đúng đắn hay không, là cái làm cho họ mở mang tâm trí.  Từ đó, người ta dễ dàng có suy nghĩ rằng con người lý tưởng để nghe xưng tội, con người hiểu đời, là một người nào đó “từng hẹn hò quanh quất.

 

Nhưng chúng ta không thật sự tin điều đó.  Tại sao vậy?  Bởi vì những gì chúng ta tìm kiếm trong vô thức ở một người để xưng tội chứng tỏ điều ngược lại.  Trong khi tìm kiếm một người để xưng tội (không nhất thiết là một người nghe xưng tội theo nghĩa bí tích), không phải là chúng ta đi tìm một ông bạn nhậu, một tay đồng lõa phạm tội, một người sẽ không phê phán chúng ta bởi vì đời họ cũng rối rắm và xáo trộn y như đời chúng ta.  Khi kiếm tìm một người để xưng tội, một cách có ý thức hay vô thức, chúng ta đang đi tìm một người mà sự thông hiểu và chấp nhận của người đó sẽ đưa chúng ta tới một chỗ khác, vượt qua tình trạng rối rắm và yếu ớt của chúng ta.  Trong sâu thẳm chúng ta biết rằng tội lỗi của chúng ta sẽ không được chữa lành bằng tội lỗi của một người khác, mà thay vào đó, nó cần phải tiếp xúc được với một điều gì đó ngây thơ hơn, giống Chúa hơn, giống như tấm lòng khoan dung của người cha đối với đứa con trai hoang đàng.


Nhưng không phải kiểu ngây thơ nào cũng vượt qua được thử thách này.
 Sự ngần ngại của Eilis trong việc thổ lộ những dằn vặt của mình trước sự ngây thơ của Jim Farrell thật ra có thể lại là một quyết định đúng đắn.  Có một loại ngây thơ mà, vì nó cố tình không nhìn thấy ở một điểm nào đó, nên miễn nhiễm một cách không lành mạnh đối với những điều phức tạp.  Nhưng cũng có một loại ngây thơ – đó là loại chúng ta kiếm tìm trong vô thức – thật sự vượt qua được thử thách này.

 

Một lần nọ, một chủng sinh trẻ đau đầu với các vấn đề tình dục viết thư cho Têrêxa Lisieux để tìm lời khuyên.  Anh nói bóng gió tới các vấn đề của mình nhưng lại bảo bà: “Nếu tôi chia sẻ với bà những gì tôi đang thật sự vất vả chống đỡ, tôi sợ rằng bà sẽ bị sốc nặng và cảm thấy chướng tai gai mắt quá rồi sẽ không viết thư trả lời tôi.”  Têrêxa viết đáp lại: “Nếu anh nghĩ như vậy, thì thật sự anh không hiểu tôi rồi!”

 

Cha xứ d’Ars là một người hết sức giản dị và vô cùng ngây thơ trong trắng.  Ấy vậy mà trong khi còn sống, ông có lẽ là người được nhiều người mong muốn gặp để xưng tội nhất.  Chúng ta khao khát chính một người như vậy để xưng tội, một người mà với họ chúng ta có thể thoải mái giải bày tâm tư phức tạp của mình, nhưng người đó không mắc những tội lỗi như chúng ta.

 

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Người Nữ Tu Đa Minh-Anastasie Thi Hành Sứ Vụ Với Lòng Can Đảm

NGƯỜI NỮ TU ĐA MINH-ANASTASIE THI HÀNH SỨ VỤ

VỚI LÒNG CAN ĐẢM

Huấn Thị Phát Xuất Lại Từ Đức Kitô khẳng định rằng: Chính bởi sự thánh hiến, mà các tu sĩ được tiếp nối sứ mệnh của Đức Kitô Giêsu trên trần gian trong việc nhiệt tâm xây dựng Nước Thiên Chúa và hăng say mang ơn cứu rỗi đến cho mọi người, nhất là những người đau khổ, cô đơn, bệnh tật, cả đến những vùng ngoại ô nơi khó khăn… dẫu cho có gặp rủi ro hay phải hy sinh mạng sống, nhưng vì tình yêu Đức Kitô thúc bách, họ sẵn sàng ra đi dấn thân phục vụ[1].

Người nữ tu Đa Minh-Anastasie, với lòng can đảm và đức tin sâu sắc, thi hành sứ vụ của mình một cách nhiệt thành và không ngại khó khăn.

1. Lòng can đảm trong sứ vụ ngôn sứ.

Người nữ tu Đa Minh-Anastasie được mời gọi sống ơn gọi ngôn sứ, loan báo Tin Mừng bằng chính cuộc đời yêu thương và phục vụ. Lòng can đảm được thể hiện qua việc "cùng chết với Đức Kitô" để làm chứng nhân Tin Mừng Phục Sinh giữa một xã hội vật chất và vô thần. Sứ vụ của chúng ta không chỉ là rao giảng bằng lời nói mà còn bằng hành động cụ thể, như chăm sóc người nghèo, giáo dục đức tin, và thăm viếng những người đau khổ…

Khi Cha Bề trên đến kinh lý lần đầu tiên tại Bor, Mẹ Anastasie đã mạnh mẽ trả lời: “Chúng con sẵn sàng, nếu cần, vắt bị lữ hành lên vai và ra đi về bất kỳ nơi nào Chúa muốn; sẵn sàng chịu đau khổ và chịu chết, miễn là được tiếp tục sống đời tu trì[2].

2. Can đảm trong đời sống cộng đoàn và vâng phục.

Người nữ tu Đa Minh-Anastasie thể hiện lòng can đảm qua việc vâng phục thánh ý Chúa và sự hướng dẫn của Bề trên. Lời khấn vâng phục mời gọi chúng ta sẵn sàng từ bỏ những gì quen thuộc, chấp nhận thay đổi để thi hành sứ vụ mới, dù điều đó có thể đem lại những khó khăn và thử thách. Sự vâng phục này không chỉ là tuân theo mệnh lệnh mà còn là một hành trình đức tin, tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa.

Trong giai đoạn khủng hoảng của Hội Dòng, Mẹ Anastasie với một tâm hồn dũng cảm đã khẳng định: “Nếu phải ở lại một mình tôi vẫn ở lại”. Từ đó, Mẹ đã thành công vượt qua ngàn khó khăn, duy trì được “sự đồng tâm nhất trí với nhau” và tái lập sự hiệp nhất của Cộng đoàn[3]. Mẹ luôn hành động với tinh thần siêu nhiên, để chị em vâng lời mà không cảm thấy gánh nặng: nhân đức vâng lời vốn là nền tảng đời tu sĩ![4].

3. Can đảm trong việc đối mặt với thách thức thời đại

Trong bối cảnh xã hội hiện đại, chúng  ta được mời gọi can đảm đối mặt với những thách thức mới, như sự suy giảm ơn gọi, sự thay đổi của xã hội, và những khó khăn trong việc loan báo Tin Mừng.

Ngày 13/4/2023, ngỏ lời với các Bề trên Tổng quyền các dòng nữ của Ý nhân dịp Đại hội đồng lần thứ 70 của tổ chức, gọi tắt là USMI, Đức Thánh Cha mời gọi các nữ tu vượt qua những thách đố như số ơn gọi ít, tính đa văn hóa của các cộng đoàn, vấn đề công việc, và hãy trung thành với ơn gọi vì Chúa là Đấng trung tín. Đức Thánh Cha Phanxicô khuyến khích các nữ tu tiếp tục là những người gieo hy vọng, xây dựng Vương quốc Thiên Chúa qua sự hiệp thông và đồng hành với người khác[5]. (ĐTC khuyên các nữ tu hãy can đảm, đừng nản lòng vì ơn gọi suy giảm ).

Thách đố của người tu sĩ hôm nay nói chung, hay của người nữ tu Đa Minh-Anastasie nói riêng, là hành trình sống Ba Lời Khấn giữa một thế giới tục hóa, một thế giới tìm kiếm chính mình, đề cao cái tôi cá nhân và sự hưởng thụ. Thao thức để chính bản thân không bị cuốn vào lối sống của thời đại và thao thức cho những ai đang đắm chìm trong lối sống đó là trách nhiệm của mỗi người tu sĩ chúng ta. Lội ngược dòng để sống chứng tá khi sống tinh thần Tự Hủy trong Ba Lời Khấn thật không là điều dễ dàng, nhưng tin vào sức mạnh của Thập Giá đem chúng ta đến niềm hy vọng mà chính Đấng Chịu Đóng Đinh đã mang lại từ trên Thánh Giá. Hay như Mẹ Anastasie Đấng Sáng Lập chúng ta xác tín “Chúng ta hãy sống bằng hy sinh… Trong mọi hoàn cảnh, các Chị phải tỏ ra mình là hiền thê của Đấng đã tự hiến trên Núi Sọ, một hiền thê hào hiệp, và hãy thường xuyên tự nhủ: thánh giá là niềm vui thú của tôi”. “Các Chị hãy tỏ ra cường tráng, can đảm, hãy có tinh thần sáng suốt và tâm hồn cao thượng[6].

4. Can đảm trong việc sống chứng tá đức tin

Chúng ta được mời gọi thi hành sứ vụ không chỉ bằng lời nói mà còn bằng đời sống chứng tá. Sống kết hiệp với Chúa qua cầu nguyện, chiêm niệm, và phục vụ trong khiêm tốn. Đời sống chứng tá của chúng ta phải trở thành lời rao giảng, thu hút người khác đến với Chúa qua sự hy sinh và yêu thương. Mẹ Anastasie có nói rằng: “Chúng ta đừng đắn đo hay tính toán các hy sinh cho các linh hồn. Chúa Giêsu không hề đếm những giọt máu mà Ngài đã đổ ra vì chúng ta”. Đời các Chị là đời hiến dâng để cứu rỗi các linh hồn. Khổ hạnh, hy sinh, cầu nguyện, sinh hoạt bên ngoài, mọi hành động đều phải trở thành phương tiện tăng nhiệt khí tông đồ[7].

Thời đại ngày nay để nói về nước Thiên Chúa không gì thuyết phục hơn là bằng đời sống chứng nhân của mình. Khi nói đến đời sống chứng nhân đức tin của cá nhân thì cũng không quên đời sống chứng nhân đức tin của cộng đoàn. Trong khi thực thi sứ vụ chúng ta sẽ không tránh  khỏi những thất bại, những khó khăn nhưng khi chúng ta tin có cộng đoàn, có chị em nâng đỡ bằng lời cầu nguyện, bằng sự hy sinh, quan tâm giúp đỡ, chúng ta sẽ vượt qua được những khó khăn và vui tươi tạ ơn Chúa.

5. Can đảm trong việc phục vụ người nghèo và người bị bỏ rơi.

Một trong những đặc điểm nổi bật không kém của người nữ tu Đa Minh-Anastasie là lòng can đảm trong việc phục vụ người nghèo, người bệnh, và những người bị bỏ rơi.

Mẹ Anastasie rất dễ động lòng trước sự đau khổ. Ngay từ những ngày đầu tiên khi Cộng đoàn mới thành lập, Mẹ đã không ngần ngại sai Chị em đi thăm viếng và chăm sóc những bệnh nhân sau các giờ dạy học, và vào các ngày Thứ Năm và Chúa Nhật. Tại một vài địa điểm, Chị em ngày đêm săn sóc các bệnh nhân của Giáo xứ. Như vậy, các nữ tu đã học ngôn ngữ của chính Tin mừng, nghĩa là loan báo Lời Chúa phải luôn đi đôi với những lời nói và cử chỉ đầy nhân ái[8].

6. Can đảm trong việc đồng hành với Giáo hội và xã hội.

Người nữ tu Đa Minh-Anastasie không chỉ sống trong cộng đoàn mà còn đồng hành với Giáo hội và xã hội qua các hoạt động tông đồ. Chúng ta tham gia vào việc giáo dục đức tin, dạy giáo lý, và thăng tiến con người, đặc biệt là giới trẻ.

Đối với người tu sĩ thì việc giáo dục đức tin phải là mối bận tâm và ưu tiên hơn cả. Qua công việc mục vụ giáo xứ, chị em được mời gọi cộng tác trong việc dạy giáo lý và các sinh hoạt đạo đức khác. Thiết nghĩ đây là môi trường thích hơp nhất để hạt giống đức tin được gieo trồng và nảy nở. 

Ngoài ra, để sát cánh cùng xã hội trong sứ vụ thăng tiến con người, chị em chúng ta cũng tham gia vào sứ mạng giáo dục qua các trường mầm non, nhà nội trú. Đó là những nẻo đường mà chị em chúng ta có thể để lại những dấu chân thật đẹp của nhà truyền giáo trên tâm hồn những người trẻ.

 

Người nữ tu Đa Minh-Anastasie thi hành sứ vụ với lòng can đảm là hình ảnh sống động của những người dám sống trọn vẹn ơn gọi thánh hiến. Trong suốt hành trình dâng hiến, sẽ có những thất bại trong công việc, sẽ có những đổ vỡ trong tương quan, sẽ có những yếu đuối và lầm lỡ. Tất cả đều đòi hỏi nơi chúng ta sự trung kiên, lòng quảng đại, lòng can đảm và một tình yêu đủ lớn. Vì khi tình yêu đủ lớn thì những trở ngại kia chúng ta sẽ vượt qua cách dễ dàng.

 

Sr M.Ignace Phùng Thị Thanh Loan

 



[1] X. Huấn thị Phát Xuất Lại Từ Đức Kito (XPL), số 9,

[2] Mẹ Anastasie/Chương I: Những bước đầu/Những bước đầu của Cộng đoàn Bor/tr 30-31

[3] Hiến Pháp/Đặc sủng của Mẹ Anastasie/Sự thành lập

[4] Mẹ Anastasie/Chương III:Nền móng Nhà dòng/Thận trọng và nhân từ/tr 57

[5] https://hddmvn.net/dtc-khuyen-cac-nu-tu-hay-can-dam-dung-nan-long-vi-on-goi-suy-giam/

[6] Mẹ Anastasie/Chương IV: Hoàn tất tổ chức/Khổ hạnh và vui tươi/tr 71-72

[7] Mẹ Anastasie/ Chương IV: Hoàn tất tổ chức/Việc tông đồ/tr 68-69

[8] HIến Pháp dòng/Đặc sủng của Mẹ Anastasie/Ngôi nhà trong làng 

Lòng Vị Tha

 

                                                LÒNG VỊ THA 

 


Trong bối cảnh xã hội hôm nay, khi nói đến lòng vị tha, chúng ta giống như người nghệ sĩ vụng về chơi một cung đàn lạc điệu.  Những tin tức hằng ngày tại xã hội Việt Nam mà chúng ta đọc thấy trên mạng truyền thông cho thấy con người ngày càng hung dữ đối với đồng loại, thậm chí ngay cả trong gia đình.  Như một quán quân cần phải tập luyện gian khổ mới xứng nhận phần thưởng, Chúa Giê-su kêu gọi chúng ta phải vượt lên lối ứng xử của thời đại để trở nên những người vị tha nhân hậu.  Nền tảng cho lòng vị tha của Ki-tô hữu là “vì Chúa là Đấng từ bi nhân hậu.  Người chậm giận và giàu tình thương” (Thánh vịnh 102 trong phần Đáp ca).  Con người được mời gọi sống nhân hậu, vì chính mỗi người cũng đã hơn một lần đón nhận lòng nhân hậu của Thiên Chúa, mặc dù có thể họ không nhận ra.  Như người con chẳng mấy khi ý thức hoặc nhận ra lòng tốt của cha mẹ, trong khi tình thương cha mẹ thì luôn mênh mông tràn đầy.

 

Thiên Chúa là Đấng nhân hậu, và những ai tin vào Ngài cũng phải sống nhân hậu.  Đó là thông điệp chính mà Lời Chúa hôm nay muốn chuyển đến chúng ta.  Vua Đa-vít là một mẫu gương về lòng vị tha.  Chính lúc đang bị Sa-un truy đuổi để sát hại, vì ghen tương, Đa-vít có cơ hội tiếp cận Sa-un trong một cái hang rộng lớn.  Lúc này, ông có thể giết chết người đang truy đuổi mình một cách dễ dàng.  Tuy vậy, Đa-vít không làm thế, vì ông là người trung nghĩa.  Ông tôn trọng người đã được Thiên Chúa xức dầu, mặc dù người đó có lỗi lầm đến đâu chăng nữa.  Vua Đa-vít để lại tiếng thơm cho các thế hệ người Do Thái và cho tất cả chúng ta.  Ông được tôn vinh là “Thánh Vương” và là niềm tự hào của dân tộc Do Thái.

 

Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa.  Người được sai xuống trần gian để rao giảng về lòng từ bi nhân hậu của Chúa Cha.  Trong giáo huấn của Người, Người luôn nhấn mạnh đến lòng thương xót bao la của Thiên Chúa, Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên những người lành cũng như kẻ dữ, làm mưa xuống cho người công chính cũng như kẻ bất lương.  Người đã chúc phúc cho những ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương (x. Mt 5, 7).  Những đề nghị của Người trong Tin Mừng hôm nay xem ra vô cùng khó khăn và đòi hỏi Ki-tô hữu phải có nhân đức tới mức anh hùng.  Những đề nghị của Chúa trong Tin Mừng cũng đi ngược hoàn toàn với quan niệm đời thường.  Bởi lẽ người đời tự nhiên có khuynh hướng hơn thua, ăn miếng trả miếng, chứ nhất định không chịu thiệt.  Đó cũng là quan niệm của Kinh Thánh Cựu ước, theo giáo huấn của ông Môi-sen.  Trong khi đó, Chúa Giê-su dạy chúng ta: hãy tha thứ và cầu nguyện cho kẻ làm hại mình.  Đức bác ái Ki-tô giáo đạt tới mức siêu việt ở những điểm này.  Đối với các môn đệ của Chúa Giê-su, không ai còn là kẻ thù, nhưng tất cả là huynh đệ trong cùng một gia đình có Chúa là Cha.  Như trên đã nói, nền tảng của lòng vị tha Ki-tô giáo đặt để trên chính bản tính của Thiên Chúa.  Điều đó có nghĩa, nếu chúng ta thực thi lòng nhân hậu, là vì Chúa là Đấng nhân hậu.  Chính chúng ta cũng đã từng đón nhận lòng nhân hậu của Chúa, nên chúng ta hãy sống nhân từ như Chúa Cha.  Thực thi lòng nhân hậu, đôi khi phải chịu thiệt thòi về danh dự hoặc những điều khác.  Hãy nhìn lên thập giá, nơi Đức Giê-su chịu khổ hình.  Người bị người đời xỉ vả khinh thường, nhưng cũng qua biến cố này, Chúa Giê-su trở nên nguyên nhân cứu rỗi và là gương mẫu cho chúng ta trong sự hy sinh và lòng quảng đại.

 

Dẫu đang sống trong cuộc đời dương thế, Ki-tô hữu là người thuộc về thượng giới.  Thánh Phao-lô đã dùng hình ảnh ông A-đam để so sánh với Chúa Giê-su.  A-đam tượng trưng cho những gì thuộc về đất (lưu ý, trong nguyên ngữ Do Thái, chữ “A-đam” có nguồn gốc từ chữ ADAMA có nghĩa là “đất”), và Chúa Giê-su tượng trưng cho những gì thuộc về trời.  Nhờ tin vào Chúa Giê-su, chúng ta thuộc về trời, và đang tiến bước tiến về quê trời.  “Hướng về trời”, đó là cách nói diễn tả những cố gắng nỗ lực để nên hoàn thiện trong chính hoàn cảnh cụ thể của mình, trong mối tương quan với Chúa và với anh chị em đồng loại.

 

Giữa bối cảnh xã hội còn nhiều xung đột và bạo lực, Ki-tô hữu được mời gọi trở nên dấu chỉ của lòng nhân hậu.  Khi thực thi bác ái và tha thứ, sẽ có nhiều hệ lụy kèm theo, nhưng chắc chắn một điều, là khi tha thứ, chính bản thân chúng ta cảm nhận niềm vui và chính chúng ta cũng được Chúa thứ tha.

 

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

 

Sự Chết

 

                                                        SỰ CHẾT

 


Khi tôi được sinh ra là khởi điểm tôi bắt đầu đi về cõi chết.  Làm gì có sự chết nếu không có sự sống.  Làm gì có ngày người ta chôn tôi nếu không có ngày tôi chào đời.  Như thế, cuộc sống của tôi là chuẩn bị cho ngày tôi chết.

Ngay từ trong bào thai của mẹ, bắt đầu có sự sống là tôi đã cưu mang sự chết rồi.
 Kết hợp và biệt ly ở lẫn với nhau.  Trong lớn lên đã có mầm tan rã.  Khi vũ trụ chào đón tôi, thì cùng một lúc, tôi bắt đầu từ giã vũ trụ từng ngày, từng giờ.

Mỗi ngày là một bước tôi đi dần về sự chết.
 Bình minh mọc lên, nhắc nhở cho tôi một bước cận kề.  Hoàng hôn buông xuống, thầm nói cho tôi sự vĩnh biệt đang đến.

Không muốn nghĩ về sự chết tôi cũng chẳng tránh đuợc sự chết.

Tôi có thể không muốn nghĩ về sự chết nhưng tôi có ghét sự chết được không?
 Tôi ghét sự chết là tôi ghét chính tôi.  Chết ở trong tôi. Tôi đang đi về cõi chết nên ngay bây giờ sự chết đã thuộc về tôi rồi.  Sự sống của tôi hàm chứa sự chết, nên tôi yêu sự sống thì tôi cũng phải yêu sự chết.  Vì vậy, cuộc đời có ý nghĩa vẫn chỉ là cuộc đời chuẩn bị cho ngày chết.

Trong dòng đời, tôi không sống một mình.
 Cuộc sống của tôi là tấm thảm mà mỗi liên hệ yêu thương là một sợi tơ, mỗi gắn bó quen biết là một sợi chỉ, anh em, cha mẹ, người yêu.  Sự chết xé rách tung tất cả để tôi ra đi một mình.  Chẳng ai đi với tôi.  Vì thế, chết mang mầu ly biệt.

Sống là hướng về tương lai.
 Tương lai là cái tôi không nắm chắc trong tay, vì vậy, tôi hay nhìn về tương lai bằng nỗi sợ bấp bênh.  Càng bấp bênh thì tôi càng tìm kiếm vững chãi, càng tích lũy.  Nhưng tích lũy xong, xây đắp xong, vất vả ngược xuôi để rồi ra đi trắng đôi tay thì đời tôi thành đáng thương hại.  Nếu tôi không đem theo được những gì tôi tích lũy, thì những gì tôi ôm ấp hôm nay chỉ làm tôi thêm đau đớn, nuối tiếc.  Nếu không muốn vậy thì chúng phải là phương tiện để chuẩn bị cho giờ ra đi của tôi.

Tích lũy cho tương lai có thể là dấu hiệu khôn ngoan đề phòng những bất trắc có thể xẩy ra.
 Mà cũng có thể là một thứ nô lệ.  Nếu suốt đời tôi lo âu tìm kiếm danh vọng, quá tham lam tiền bạc, lúc nào cũng bị vây khốn, băn khoăn thì đâu là niềm vui, tận hưởng.

Mà tận hưởng là gì?
 Ðâu là ý nghĩa của sự tìm kiếm?  Tích lũy?

Kinh Thánh kể:

Có người trong đám dân chúng nói với Ðức Kitô: “Thưa Thầy, Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi
.

Ngài đã nói cùng họ: “Hãy coi chừng!
 Hãy lo giữ mình tránh mọi thứ gian tham, vì không phải ai được sung túc, là đời sống người ấy chắc chắn nhờ của cải.

Ngài nói cùng họ một ví dụ rằng: “Có người phú hộ, ruộng nương được mùa, nên suy tính với mình rằng: ta phải làm gì?
 Vì ta không còn chỗ nào mà tích trữ hoa mầu nữa.  Ðoạn người ấy nói: Ta sẽ làm thế này: phá quách các lẫm đi, mà xây những lẫm lớn hơn, rồi chất cả lúa mạ, và của cải vào đó, rồi ta nhủ hồn ta: Hồn ơi!  Mày có dư thừa của cải, sẵn đó cho bao nhiêu năm; nghỉ đi!  ăn uống đi!  hưởng đi!  Nhưng Thiên Chúa bảo nó: Ðồ ngốc!  Ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi sự ngươi đã sắm sửa, tích góp kia sẽ về tay ai? (Lc 12,13-21).

Không ai sống hộ tôi.
 Không ai chết thay tôi.  Không ai đi cùng tôi.  Tôi sẽ ra đi lẻ loi.  Họ sẽ quên tôi cũng như tôi đã quên bao người.  Có thể đôi khi họ nhớ tôi.  Cũng như đôi khi tôi nhớ người này, kẻ kia.  Nhưng nỗi nhớ chỉ là của riêng tôi, còn kẻ đã ra đi vẫn ra đi miền miệt.  Thì cũng thế, chẳng ai làm gì được cho tôi lúc tôi ra đi không trở lại.

Chết là mất tất cả.
 Nhưng thánh Phaolô lại tuyên tín rằng chết là chiến thắng (1Cor 15,54).  Chết là đi về sự sống vĩnh cửu.  Chết là gặp gỡ.  Gặp Ðấng tạo nên mình.  Như vậy, chết là cánh cửa im lìm được mở ra để tôi về với Ðấng thương tôi.  Chết là điều kiện để sống.

Chúa ơi, chết là đi về với Chúa sao con vẫn lo âu?

Phải chăng nỗi lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con sợ con có thể không gặp Chúa.
 Vì sợ không gặp nên chết mới là bản án nặng nề.  Mà tại sao con lại sợ không gặp Chúa?  Chúa luôn mong mỏi, đợi chờ con cơ mà.  Như thế, muốn gặp Chúa hay không là do ý của lòng con.  Con có quyền quyết định cho hạnh phúc của mình.

Chúa ơi, vì biết mình sẽ chết nên con băn khoăn tự hỏi bao giờ thì chuyến tầu định mệnh đem con đi.
 Hôm nay hay ngày mai?  Mùa thu này hay mùa xuân tới?  Con âu lo.  Nhưng vì sao phải lo âu?

Phải chăng lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con chưa chuẩn bị đủ, là hồn con còn ngổn ngang.
 Có xa Chúa thì mới sợ mất Chúa.  Sợ mất Chúa thì mới xao xuyến băn khoăn.  Con biết thế, con biết rằng vì không sẵn sàng, vì không chuẩn bị nên mới hồi hộp, mất bình an.  Con biết thế, con biết sau khi chết là hạnh phúc hay gian nan, là núi cao với mây ngàn cứu rỗi, hay vực sâu phiền muộn với đau thương.  Nhưng chuẩn bị cho giờ ra đi không đơn giản Chúa ơi.  Chúa biết đó, con đi tìm Chúa nhưng là đi trong lao đao.  Bởi yêu một vật hữu hình thì dễ hơn lắng nghe tiếng gọi từ nơi xa thẳm.  Giầu có và danh vọng cho con hạnh phúc mà con có thể sờ được.  Còn hạnh phúc của đức tin thì sâu thắm quá.

Chung quanh có biết bao mời mọc.
 Kinh nghiệm cho con thấy rằng đã nhiều lần con bỏ Chúa.  Như vậy biết đâu con lại chẳng bỏ Chúa trong tương lai.  Nếu lúc đó mà giờ chết đến thì sao?

Chúa có nghĩ rằng khi con phải phấn đấu chối từ những rung cảm bất chính để sống theo niềm tin là thánh giá của con không.
 Chối từ tiếng gọi của tội lỗi đã là một thánh giá.  Nhưng có khi lo âu vì không biết mình có từ chối được không còn là một thánh giá khác nữa.  Chính đấng thánh của Chúa mà còn phải kêu lên: “Ôi! những điều tôi muốn làm thì tôi chẳng làm, những gì tôi muốn trốn tránh thì tôi lại làm” (Rom 7,15-16).  Chúa thấy đó, vị tông đồ lớn của Chúa mà còn như thế, huống chi con, một kẻ mang nhiều đam mê, yếu đuối thì đường về với Chúa gian nan biết bao.

Ðể khỏi chết khi con chết, thì con phải chết trước khi con chết.

 

Cái chết đó là đóng đinh đời con vào thập giá.  Con không biết con can đảm đến đâu.  Con chỉ xin sao cho con tiếp tục đi mãi.  Ði xiêu vẹo vì yếu đuối của con, nhưng vẫn tiếp tục đi.

Thập giá nào thì cũng có đau thương.

Con không muốn thập giá.
 Vì thập giá làm con mang thương tích.  Chúa cũng đã ngã.  Nhưng nếu sự sống của con mang mầm sự chết, thì trong cái chết của thập tự nẩy sinh sự sống.  Chúa đã chết.  Chúa hiểu nỗi sợ hãi của sự chết.  Con vẫn nhớ lời Chúa cầu nguyện: “Lạy Cha, con xin phó hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).  Hôm nay con cũng muốn nói như vậy đó, với Chúa.  Cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa dạy con rằng chẳng có sự sống nào mà không phải qua sự chết.  Chết thì sợ hãi, nhưng nếu con yêu sự sống thì con phải yêu sự chết.

Con muốn chết để được sống.

Con sẽ đóng đinh đời con vào thập tự.
 Chúa ơi, Chúa có cho những lo âu của con là dấu chỉ tình yêu của một tâm hồn yếu đuối, đang thao thức đi tìm Chúa vì sợ mất Chúa không.

 

Lạy Cha, trong tay Cha con xin phó thác đời con.

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ
Trích trong Nước Mắt và Hạnh Phúc

 

Làm Người Môn Đệ Chúa Thương

 

LÀM NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÚA THƯƠNG

 


Tin mừng theo thánh Gioan cho chúng ta thấy một hình ảnh thần nghiệm rất hùng hồn mà khá trần tục.  Khi thánh Gioan mô tả Bữa Tiệc Ly, ngài cho chúng ta biết rằng trong bàn tiệc, người môn đệ mà Chúa thương ngồi ngả đầu vào ngực Chúa.

 

Tôi tin là các họa sĩ nắm bắt sức mạnh của hình ảnh này tốt hơn là các thần học gia và học giả Kinh thánh.  Các họa sĩ và diễn giải nghệ thuật thường thể hiện hình ảnh này như sau: Người môn đệ Chúa thương ngả đầu vào ngực Chúa với một tai hướng thẳng vào tim Chúa Giêsu, nhưng mắt thì nhìn thẳng vào thế giới.

 

Đúng là một hình ảnh hùng hồn!  Nếu đặt tai vào ngực người khác, bạn có thể nghe được tiếng tim họ đập.  Thế thì người môn đệ này là người hòa chung nhịp tim của Chúa và đang nhìn ra thế giới từ điểm quy chiếu đó.

 

Xa hơn nữa, thánh Gioan cho chúng ta một loạt hình ảnh để thực tế hóa những hệ quả từ việc nghe tiếng tim Chúa.

 

Trước hết, người môn đên Chúa thương đã đứng cạnh Đức Mẹ dưới chân thập giá Chúa Giêsu.  Hình ảnh này gói gọn điều gì?  Trong Tin mừng theo thánh Luca, Chúa Giêsu thừa nhận là đôi khi bóng tối có vẻ lấn át sự thiện và dường như Thiên Chúa bất lực.  Đôi khi bóng tối lấn lướt!  Cái chết của Chúa Giêsu là một trong những lúc như thế, và người môn đệ Chúa thương, cũng như Đức Mẹ, không thể làm gì khác ngoài đứng đó bất lực giữa muôn trùng tối tăm và bất công.  Chẳng thể làm được gì ngoài đứng đó bất lực.  Nhưng khi đứng đó, người môn đệ Chúa thương cũng chung vai sát cánh với hàng triệu người nghèo và những nạn nhân trên khắp thế giới, những người chẳng thể làm gì trước cảnh ngộ của mình.  Khi người ta đứng đó bất lực, khi chẳng thể làm được gì, khi sự hữu hạn của con người câm nín, thì có thể nảy lên lời cầu nguyện thâm sâu nhất.  Rồi sau đó, người môn đệ Chúa thương đưa Đức Mẹ về nhà mình, một hình ảnh không cần phải giải nghĩa gì thêm.

 

Tuy nhiên, có một hình ảnh thứ hai liên kết với người môn đệ Chúa thương ngả đầu vào ngực Chúa, mà chúng ta cần giải nghĩa đôi chút.  Khi người môn đệ đó ngả vào ngực Chúa, thì có một cuộc đối thoại đáng để ý diễn ra.  Chúa Giêsu bảo các môn đệ là một người trong số họ sẽ phản bội Ngài.  Thánh Phêrô quay sang người môn đệ Chúa thương mà nói: “Hỏi thầy xem đó là ai?”  Điều này gợi lên chất vấn: Tại sao Phêrô không tự hỏi Chúa câu đó?  Thánh Phêrô đâu có ngồi xa Chúa đến mức không thể tự mình hỏi Chúa câu đó.

 

Hơn nữa, câu hỏi của thánh Phêrô có tầm quan trọng thực sự khi xét theo bối cảnh sử học.  Các học giả ước chừng Tin Mừng theo thánh Gioan được viết vào khoảng những năm 90 đến 100.  Khi đó thánh Phêrô đã được công nhận là giáo hoàng và đã chịu tử đạo rồi.  Đoạn Tin Mừng này đang nói lên rằng sự mật thiết với Chúa Giêsu cao hơn bất kỳ điều gì khác, kể cả vai vế trong giáo hội, kể cả có là giáo hoàng đi chăng nữa.  Lời cầu nguyện của tất cả mọi người đều đi qua người môn đệ Chúa thương.  Đức Giáo hoàng không thể cầu nguyện với tư cách Giáo hoàng, nhưng là với tư cách một người môn đệ được Chúa thương như bao Kitô hữu khác.  Đức Giáo hoàng có thể cầu nguyện cho thế giới và giáo hội với tư cách Giáo hoàng, nhưng chỉ có thể cầu nguyện riêng với tư cách người môn đệ Chúa thương.

 

Cuối cùng, trong Tin Mừng theo thánh Gioan nêu bật lên khái niệm rằng sự mật thiết với Chúa Giêsu thì quan trọng hơn vai vế trong Giáo hội, và điều này được mô tả rõ hơn nữa trong buổi sáng ngày Phục Sinh.  Maria Magdalena chạy từ mộ về và bảo các môn đệ là ngôi mộ trống.  Thánh Phêrô và người môn đệ Chúa thương liền chạy ngay đến mộ.  Ta có thể dễ dàng đoán ra ai là người đến đó trước.  Người môn đệ Chúa thương dễ dàng đến trước thánh Phêrô, không phải bởi có lẽ do trẻ hơn, nhưng là do tình yêu thì mạnh hơn vị thế.  Đức Giáo hoàng cũng có thể đến đó trước, nếu ngài chạy với tư cách người môn đệ Chúa thương chứ không phải tư cách giáo hoàng.

 

Và mọi người cho rằng người môn đệ Chúa thương chính là thánh Gioan.  Có thể đúng là thế, nhưng đấy không phải điều mà những đoạn Tin Mừng này muốn nói.  Thân thế theo sử học của người môn đệ Chúa thương được bỏ ngỏ một cách có chủ đích, là bởi Tin mừng muốn khái niệm về người môn đệ Chúa thương là một lời mời gọi và một vai trò hợp với bạn, với mọi Kitô hữu trên đời, bao gồm cả giáo hoàng nữa.

 

Vậy ai là người môn đệ Chúa thương?  Người môn đệ Chúa thương có thể là bất kỳ ai, nam nữ trẻ em, miễn là mật thiết với Chúa Giêsu đủ để hòa nhịp với nhịp tim của Chúa, và nhìn thế giới từ góc nhìn của sự mật thiết đó, cầu nguyện từ sự mật thiết đó, và ra đi trong yêu mến đến tìm Chúa Giêsu Phục sinh và hiểu được ý nghĩa của ngôi mộ trống.

 

Các hình ảnh thần nghiệm được giải nghĩa rõ nhất nhờ các nhà thần nghiệm khác.  Nghĩ như thế, tôi xin để lại cho các bạn một hình ảnh từ Đan phụ Sa mạc thế kỷ IV, Evagrius Ponticus.

 

Ngực Đức Chúa
Vương quốc Ngài
Ai ngả vào đấy
Là thần học gia

 

Rev. Ron Rolheiser, OMI