Đối
với người Dothái, tên biểu thị con người. Chẳng hạn như Evà:
mẹ của chúng sinh; Abraham: cha của vô số dân tộc; Xarai:
mẹ của các công chúa, vua chúa; Isaác: nó cười; Môsê:
được đưa ra khỏi (nước); Gioan: ân huệ của Đức Chúa, Giuse: cho
thêm …
Tên
Giuse [yösëp] dựa theo nguyên ngữ Hípri ở trên có nghĩa là “cho thêm”. Còn
dựa trên sáu mẫu tự làm nên tên gọi JOSEPH, người ta nhận thấy sáu
nhân đức nổi bật của Thánh Nhân: Justitia/ Just (công chính), Oboedientia/ Obedience (vâng
lời), Sapientia/Sapience (khôn
ngoan), Experientia/ Experience (kinh
nghiệm), Patientia/ Patience (kiên
nhẫn//trọn đời), Humilitas/ Humility (khiêm
nhu).
Justitia (công
chính): Không
giống như trường hợp của Đức Maria, Thánh Kinh nói rất ít về cuộc đời của Thánh
Giuse. Tuy vậy, những câu đầu tiên mô tả về ngài lại nói về đức công
chính: “Ông Giuse,
chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà
cách kín đáo” (Mt 1,19).
Có
nhiều định nghĩa về đức công chính dựa theo thái độ và hành vi của con người
trước Thiên Chúa. Cựu ước đã nêu ra 10 mẫu mực về sống công chính trong lịch sử
cứu độ trong sách Kn 10. đó là: ông Nôê (Kn 10,4), tổ phụ Ápraham
(Kn 10,5), ông Lót (Kn 10,6), tổ phụ Giacóp (Kn 10,10), ông Giuse Aicập (Kn
10,13), và Dân được ông Môsê dẫn ra khỏi Aicập (Kn 10,15.20). Vậy Giuse công
chính theo nghĩa nào, và giống mẫu gương nào?
Nói
về gốc tích Đức Giêsu, khi Mt nối kết Giuse ở cuối gần với Đức Giêsu lên với
Apraham ở đầu danh sách, chắc chắn Mt đã liên tưởng sự công chính của Giuse với
Ápraham: “ông Ápraham đã tin Ðức Chúa, và vì thế, Ðức Chúa kể ông là người
công chính” (St 15,6). Như vậy, có thể nói điểm nổi bật nói đức công chính
của Giuse là đức tin. Giuse là người có đức tin ưu việt như
Ápraham, tin theo tiếng gọi của Thiên Chúa và sẵn sàng thực hiện sứ vụ
Thiên Chúa giao phó để cộng tác vào chương trình cứu độ của Người.
Oboedientia (vâng
lời): Như các mẫu gương công chính trong Cựu Ước khi
đứng trước chương trình lớn lao của Thiên Chúa, Giuse lo sợ.
Lúc này, vì ngài biết rằng Maria thụ thai không theo cách bình thường, mà do
quyền năng của Thiên Chúa nên ông “định tâm lìa bỏ Maria cách kín đáo”.
Ông đã lo sợ khi đứng trước chương trình mầu nhiệm quá lớn lao của Thiên Chúa.
Chính vì thế, sứ thần đã trấn an “Này ông Giuse, con cháu vua Ðavít, đừng
sợ / μὴ
φοβηθῇς”. Run sợ trước sứ vụ
mà Thiên Chúa ủy thác là một thái độ tiêu biểu của người công chính.
Dầu
lo sợ nhưng sau khi Sứ thần Chúa giải thích cho ông hiểu những gì đã xảy ra với
Maria, với thai nhi, không một lời phản kháng, lập tức “khi tỉnh giấc, ông
Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà”. Sự “sợ hãi” của Giuse và
sau đó là cách đáp trả lại chương trình Thiên Chúa như thế đã làm cho
Giuse giống với Môsê trước bụi gai đang bốc cháy (Xh
3,5), giống với Isaia đứng trước sự hiện diện của Đấng
ba lần Thánh (Is 6,5), và sau này đó là thái độ của Êlisabét khi
đứng trước Thân mẫu của Đức Chúa (Mt 8,8), và nhiều người của Thiên Chúa khác
nữa.
Với
thánh Giuse, khi đã được giải thích, ngài đã mau mắn vâng phục thiên ý mà đón
nhận sứ vụ để cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa đang thực hiện nơi
Maria, nơi Thai Nhi và nơi chính mình. Trong Kinh Thánh, có 4 lần thuật lại
việc sứ thần truyền cho thánh Giuse một sứ mạng trong giấc mơ thì ngài liền
trỗi dậy và làm theo: đó là thái độ vâng phục triệt để, một
nhân đức đặc trưng của của thánh Giuse.
Sapientia (khôn
ngoan): khôn ngoan để suy
tính, cân nhắc tìm giải pháp sao cho đẹp cả đôi đường: cho ngài và cho thanh
danh của Maria. Khôn ngoan tiên liệu những gì có thể xảy ra với hài nhi con của
mình mà tìm cách lánh nạn, nhưng khôn ngoan hơn cả là làm theo sự chỉ dẫn của
Thiên Chúa.
Experientia (kinh
nghiệm): Là người từng trải
trên đương đời và trong cuộc sống (năm kia, dựa theo Tin mừng Ngụy Thư Giacôbê
và Mátthêu, chúng ta đã nghe đến giả thuyết Giuse đã kết hôn với bà Menkha và
sinh được 4 người con trai, sau này được gọi là “các anh em của Chúa”), để có
thể dìu dắt thánh gia tiến bước trên đường đời.
Patientia (kiên
nhẫn): Trong
Lời nguyện Nhập Lễ, chúng ta đã nghe “Lạy Chúa, Chúa đã giao phó Đức Giêsu
cho thánh cả Giuse, và thánh nhân đã trung thành gìn giữ trong giai đoạn đầu
của công trình cứu độ”. Đây là một nhiệm vụ hết sức nặng nề kéo theo
một thời gian rất dài, nên để chu toàn sứ vụ này, ắt hẳn thánh Giuse phải có
đức kiên nhẫn. Đức kiên nhẫn này được thể hiện qua các biến cố, khi vừa tìm
kiếm thánh ý Thiên Chúa vừa âm thầm làm theo mà không kêu ca phải kháng như
nhiều lần Kinh Thánh trình
thuật:
-Kiên
nhẫn đón Đức Maria chịu thai mà không do “quyền phép mình”, về nhà, săn sóc,
thương yêu.
-Kiên
nhẫn khi Đức Maria mãn nguyệt khai hoa, không có ai khác chăm sóc, trong cảnh
nghèo không người tiếp đón trong một hang đá ở đồng hoang xa lạ.
-Kiên
nhẫn khi được Thiên Thần báo tin vua Hêrôđê tìm cách giết hài nhi, thánh Giuse
đã đưa Hài Đồng Giêsu và mẹ Maria trốn qua Ai Cập, sau đó được báo tin quê nhà
đã an toàn, ngài lại đưa Thánh gia trở về sống ở quê hương Nadarét.
-Tại
đây, thánh Giuse đã kiên trì lao động bằng đôi tay thợ mộc để “nuôi dưỡng”
gia đình, tận tâm để “giáo dục” Đức Giêsu “ngày
càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta”
(Lc 2,52).
Thánh
Giuse vẫn kiên nhẫn đi tìm Đức Giêsu bị lạc lúc lên đền thờ vào năm 12 tuổi.
Sau ba ngày gặp lại Con trong trong đền thờ Giêrusalem, Giuse nghe những lời
giải thích của Đức Giêsu, nhưng cũng như Đức Maria chẳng hiểu gì hết, nhưng
ngài vẫn âm thầm kiên nhẫn chờ đợi điều gì sẽ xảy ra. Có thể nói, với sự kiên
nhẫn, cuộc sống của thánh Giuse đã hành động nhiều hơn là nói và từ đó
kèm theo nhân đức nổi bật sau cùng được phản ảnh trong tên của Ngài:
Humilitas (khiêm
nhu): Khi nghĩ về Đức
Giêsu như là một con người, thì người ta nghĩ đến công sinh thành dưỡng dục của
bậc cha mẹ. Có thể nói ba công việc căn bản Sinh-Dưỡng-Dục Đức
Giêsu thì thánh Giuse đã chiếm mất hai phần rưỡi. Ngài không tạo sinh (của
CTT), nhưng trợ sinh Đức Giêsu. Sau đó thì Dưỡng và Dục Đức
Giêsu mãi cho đến thánh Giuse khi nhắm mắt lìa đời (ngụy thư nói ngài mất lúc
111 tuổi, và Đức Giêsu được 22 tuổi = tuổi trưởng thành). Có thể nói nhân cách
Đức Giêsu có được chủ yếu là học ở trường nhà Nagiarét và người thầy, vị giám
học chính là thánh Giuse. Công lớn là thế, nhưng Thánh Giuse không nói về mình,
và Kinh thánh cũng nói ít về ngài. Ngài quả thật rất khiêm nhu bằng
cách ít nói mà hành động nhiều trong âm thầm.
Thánh
Giuse ít nói mà chúng ta lại nói quá nhiều về ngài. Đến đây, có lẽ tôi phải bắt
chước ngài “ít nói” để dừng lại bài chia sẻ ở đây. Trước khi dừng hẳn, xin ghi
nhớ các nhân đức nổi bật của ngài ở trong lòng để suy gẫm mà noi theo:
Khôn
ngoan, kinh nghiệm, trọn đời, khiêm nhu.
Giuse Ngô Ngọc Khanh OFM