Chúa Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem để chịu khổ hình, hoàn
thành việc cứu độ. Chính lúc đi ngang qua Samaria, nhất là qua việc cứu chữa
mười bệnh nhân phong, Chúa cho thấy một vài đặc điểm của ơn cứu độ.
Ơn cứu độ là phổ quát.
Chúa muốn cứu độ hết mọi người không loại trừ ai. Nên Chúa đi
qua Samaria. Samaria là vùng đất cấm kỵ đối với người Do Thái. Đó là vùng đất
ngoại đạo. Đó là vùng đất ô uế. Người Do Thái và người Samaria không giao thiệp
với nhau. Nhưng Chúa đã vượt qua ranh giới cấm kỵ đó. Chúa muốn đem ơn cứu độ
đến cho mọi người. Tại Samaria Chúa còn gặp gỡ mười người phong cùi. Lại một
cấm kỵ nữa. Người phong cùi vốn bị coi là hạng người tội lỗi, ô uế. Ai gặp họ
đều trở nên ô uế. Họ bị loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Tại Samaria, những
người phong cùi là những người ở tầng lớp cuối cùng của xã hội. Chúa đem ơn cứu
độ cho mọi người, kể cả những người bị khinh miệt nhất, bị quên lãng nhất, bị
hất hủi nhất. Ơn cứu độ Chúa ban cho tất cả mọi người. Trước mặt Chúa mọi người
đều bình đẳng.
Ơn cứu độ là nhưng không.
Không ai dám nghĩ đến việc mời Chúa xuống trần gian. Không ai có
công trạng gì khiến Chúa phải xuống trần gian để tưởng thưởng hay để đền đáp.
Chúa xuống trần gian hoàn toàn do lòng nhân từ yêu thương của Chúa. Cũng thế,
người Samaria hoàn toàn bất ngờ khi Chúa đến miền đất của họ. Những người phong
cùi lại càng không bao giờ dám mơ tưởng tới. Bản thân họ đã bị lên án, bị loại
trừ rồi. Ngay việc gặp một người bình thường đã không được phép, huống chi là
gặp gỡ Chúa. Nhưng Chúa đã đến gặp gỡ họ, ban ơn cứu chữa họ. Hoàn toàn nhưng
không. Họ chẳng có công gì. Họ chẳng có quyền đòi hỏi gì. Họ chỉ có nỗi đau khổ
tột cùng. Chính nỗi đau khổ đó đã khơi dậy lòng yêu thương của Chúa. Vì Chúa là
tình yêu thương.
Ơn cứu độ phải được đón nhận với niềm tin.
Tuy ơn cứu độ được ban rộng rãi và nhưng không, nhưng để đón
nhận đòi phải có niềm tin. Những người phong cùi hôm nay đã bày tỏ niềm tin qua
hai thái độ. Thái độ thứ nhất là đồng thanh lớn tiếng kêu cầu danh Chúa Giêsu:
“Lạy Thày Giêsu, xin cứu chúng tôi”. Danh Thánh Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa
cứu. Từ cùng tận nỗi đau khổ, những người phong cùi đã kêu van bằng tất cả tấm
lòng tha thiết và với niềm tin vững chắc. Chỉ có Chúa mới thương xót họ. Chỉ có
Chúa mới đủ quyền năng cứu chữa họ. Thái độ thứ hai là đi trình diện với thày
tư tế. Chúa không chữa họ ngay nhưng bảo họ đi trình diện với thày tư tế. Dù
chưa được khỏi, nhưng họ vẫn tin tưởng lên đường. Đang khi đi đường thì họ được
khỏi. Đức tin đã chữa họ.
Ơn cứu độ phải được đón nhận với niềm vui.
Đây là niềm vui trong mối tương giao giữa Thiên Chúa với con
người. Cốt lõi của ơn cứu độ là thiết lập mối tương giao, cho con người được
trở nên con cái Thiên Chúa, đồng hưởng hạnh phúc với Chúa. Đó là cội rễ của
niềm vui, niềm hạnh phúc. Chín người bệnh không trở lại chỉ có niềm vui được
khỏi bệnh, nhưng không có niềm vui trong mối tương giao với Thiên Chúa. Họ có
đức tin cầu xin nhưng thiếu đức tin gặp gỡ với Thiên Chúa. Niềm vui được khỏi
bệnh rồi cũng sẽ nhạt phai. Chỉ có một người trở lại tạ ơn. Anh trở lại vì mối
tương giao. Anh nhận biết nguồn gốc niềm vui của mình. Anh sụp lạy Chúa vì biết
nguồn gốc hiện hữu của mình. Anh đã tìm thấy nguồn cội ý nghĩa đời mình. Niềm
vui của anh sẽ còn mãi mãi. Đời anh sẽ là một đời tạ ơn không ngừng.
Lạy Chúa, xin cho con biết tìm đến gặp gỡ Chúa để tạ ơn Chúa.
Chính niềm vui tạ ơn này đem đến cho con hạnh phúc suốt đời con. Amen.
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt