Sau ba năm Đức Giêsu rao giảng, không ít người đã
tin vào Ngài; tuy nhiên niềm tin vào Đức Giêsu của những người này tối đa cũng
tương tự như niềm tin của các tông đồ khi Đức Giêsu còn sống đời dương thế. Họ
cho rằng Đức Giêsu là một vị thầy, hơn nữa có thể là một tiên tri, và cao nhất
có thể là Đấng Kitô Vua (Ga.6, 15; Mc.8, 29; 11, 9-10). Vào thời điểm đó, người
ta không thể biết khác hơn được. Còn đối với những người không tin Đức Giêsu,
những kẻ khó chịu hoặc bực tức vì Ngài trổi trang hơn họ, Đức Giêsu đơn thuần
chỉ là một con người bình thường như bao người. Những người này không chỉ bất
đồng ý kiến với Đức Giêsu, không chỉ khó chịu và bực tức mà còn muốn giết Đức
Giêsu nữa (Mc.3, 6).
Vào thời cuối của ba năm rao giảng, Đức Giêsu đã
nhiều lần nói những điều có thể làm cho Ngài phải bị ném đá. Chẳng hạn Ngài nói
Ngài có quyền tha tội (Mc.2, 5.7), Ngài có trước Abraham (Ga.8, 57-58), Ngài và
Thiên Chúa là một (Ga.10, 30). Vào cuối đời, Ngài có những câu nói “gây mất
lòng” nhiều người. Càng vào cuối đời, càng có ít người theo Ngài, vì những lời
khó có thể hiểu và chấp nhận được, chẳng hạn: “chính tôi là bánh hằng sống. Ai
đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Ga.6.
35). Những lời nói tương tự không chỉ làm Đức Giêsu “mất người” mà còn gây thêm
có nhiều người thù địch với Ngài, thậm chí còn làm cho những người muốn giết
Ngài có đủ bằng cớ và hậu thuẫn. Chẳng hạn, Ngài nhận mình là Thiên Chúa:
“chúng tôi ném đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp nhưng vì một lời phạm
thượng: ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa” (Ga.10, 33).
Gần lễ Vượt Qua, âm mưu giết Đức Giêsu trở nên rõ
ràng nên Ngài lui về Galilê. Vì thế, thời điểm Lazarô chết không có mặt Đức
Giêsu tại đó. Sau đó khi Ngài muốn lên Giêrusalem thì các tông đồ đã ngăn cản.
Tông đồ Thomas đã động viên các bạn: “nào chúng ta cùng lên Yerusalem để cùng
chết với thầy” (Ga.11, 16). Đức Giêsu cũng biết Ngài sẽ bị giết nếu Ngài lên
Giêrusalem vào thời điểm này, tuy nhiên Ngài vẫn cứ lên. Ngài không muốn trốn
chạy cái chết. Ngài đã phải chọn lựa giữa sống và chết một cách cụ thể qua việc
có lên Giêrusalem dịp lễ Vượt Qua này hay không. Cuối cùng Ngài đã chọn lên
Giêrusalem cho dù cái chết đang chờ đón Ngài.
Ở Giêrusalem, Ngài vẫn làm điều Ngài vẫn thường
làm: “ban ngày Ngài giảng dạy trong đền thờ, còn ban đêm Ngài và các tông đồ ra
vườn dầu để ngủ” (Lc.21, 37). Hôm
nay Ngài vào Giêrusalem và được dân chúng đón rước như vị Thiên Sai. Ngài chấp
nhận biến cố này vì biết thời điểm đặc biệt của Ngài đã đến: thời điểm Ngài
được tôn vinh cũng là thời điểm Ngài chết trên thập giá. Cái chết của Ngài có
thể được thấy trước vì nó cũng theo quy luật của xã hội: người ta ghét Ngài đến
độ muốn giết Ngài (Mc.14, 1).
Lúc khởi đầu người ta muốn giết Ngài vì Ngài đã
dám suy nghĩ và nói ngược lại những người có thế lực (Mc.3, 6; 14, 1; 14,
53-59); nhưng khi vị thượng tế hỏi Đức Giêsu và Đức Giêsu trả lời: “rồi các ông
sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và đến trên mây trời” thì họ không
cần phải sắp đặt chứng cớ để giết Đức Giêsu như trước nữa, vì Đức Giêsu đã phạm
một tội vô cùng lớn mà mọi người Do Thái một khi biết đều phải xử tử Đức Giêsu,
vì là người mà dám cho mình ngang hàng với Thiên Chúa (Mc.14, 62-64). Đức Giêsu
đầu tiên bị người ta ghen ghét mà muốn giết, rồi khi đã bị bắt và xét xử với
chứng cớ được xếp đặt trước, Ngài lại nói Ngài ngang hàng với Thiên Chúa; như
vậy trước công nghị Do Thái, Đức Giêsu bị kết án tử hình vì tội tôn giáo: lộng
ngôn xúc phạm đến Thiên Chúa. Trên thập giá Đức Giêsu nói: “Lạy Cha, xin tha
cho chúng vì chúng lầm chẳng biết” (Lc.23, 34); thật vậy, không biết nguồn gốc
thần linh của Đức Giêsu, thì kết án Ngài là chuyện tất nhiên.
Để giết được Đức Giêsu một cách hợp pháp, người
Do Thái phải đem Đức Giêsu sang tòa Roma. Vào thời người Do Thái bị đô hộ,
quyền xử tử thuộc về thẩm quyền người Roma. Đức Giêsu đã bị gán cho tội chính
trị “xưng vương”. Nếu không gán cho Đức Giêsu tội chính trị thì Philatô đã
không kết án tử hình Đức Giêsu. Philatô biết Đức Giêsu bị oan, nhưng vì sợ mất
chức nên đã kết án Ngài. Nếu không kết án Đức Giêsu, Philatô có thể bị
người Do Thái tố cáo với hoàng đế Roma vì đã buông tha người xưng vua phất cờ
khởi nghĩa. Nếu vậy, Philatô phải giải thích, phải biện luận, và sẽ gặp nhiều
phiền phức, và hậu quả sẽ là không được hoàng đế tin tưởng nữa, vì vậy Philatô
đã kết án tử hình Đức Giêsu thuận theo ý của người Do Thái.
Nếu Đức Giêsu chỉ là một con người, Đức Giêsu
xứng đáng lãnh án tử. Thực vậy, khi Đức Giêsu còn sống, nào ai biết Đức Giêsu
là người có nguồn gốc thần linh, vì đâu là chứng cớ để người ta có thể tin như
vậy! Chỉ khi Đức Giêsu chết và sống lại, người ta mới nhận ra những gì Đức
Giêsu nói và cho mình là, là chân thực. Như vậy, chỉ sau biến cố Đức Giêsu Phục
Sinh, các tông đồ mới biết chân tướng của Đức Giêsu. Nếu Đức Giêsu là kẻ lộng
ngôn phạm thượng, thì Thiên Chúa đã chẳng phục sinh Ngài, còn nếu Ngài đã sống
lại, nghĩa là những điều Ngài đã nói là đúng, là chân lý. Nghĩa là, Ngài và
Thiên Chúa là một, Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài có trước Abraham.
Khi còn sống đời dương thế, Đức Giêsu khó có thể
thoát chết, vì chân tướng của Ngài chỉ có thể được thấy rõ sau khi Ngài sống
lại. Đức Giêsu bị hiểu lầm mà bị kết án tử hình, vì không ai biết Thiên Chúa là
Ba Ngôi Vị, vì không ai có thể tưởng rằng Thiên Chúa có thể nhập thể làm người.
Sau khi Ngài sống lại, với ơn của Thánh Thần, các tông đồ nhận ra ý nghĩa của
những lời Ngài đã nói mà khi Ngài còn đang sống các ông chẳng hiểu gì. Ngài là
Đấng có nguồn gốc thần linh, Ngài ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài và Cha là một,
Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm