Tổng Lãnh Thiên Thần Michael, Gabriel và Raphael

 

TỔNG LÃNH THIÊN THẦN MICHAEL, GABRIEL VÀ RAPHAEL

 


A.  Lịch Sử

 

Thuật ngữ Thánh Kinh dùng để gọi các thiên thần đều có nghĩa là “sứ giả.”  Theo thư Do Thái 1,14, các thiên thần là những thần linh phục vụ cho Thiên Chúa, và Thiên Chúa sai họ đến với những người cần được cứu giúp.

 

Cựu Ước cũng gọi họ là “Các Thánh” hay là “những người con của Thiên Chúa.”  Nổi bật nhất giữa các thiên thần là các đấng Michael, Kêrubim và Sêraphim.

 

Michael, có nghĩa: “Ai ví bằng Thiên Chúa”

Gabriel, có nghĩa: “Sức Mạnh của Thiên Chúa” hay là “Anh hùng của Thiên Chúa

Rafael, có nghĩa: “Thiên Chúa cứu giúp

 

Thánh lễ hôm nay bắt nguồn từ lễ thánh hiến Đền thờ Michael trên đường Via Salaria ở Rôma.  Ngày hôm nay cùng với Tổng lãnh thiên thần Michael, Hội Thánh cũng mừng chung hai tổng lãnh thiên thần Gabriel và Rafael.  Theo lịch xưa, các ngài được mừng vào những ngày 24.3 và 24.10. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)

 

B.  Ý Nghĩa...

 

Thánh Kinh cách chung và Tân Ước cách riêng tương đối nói ít về các thiên thần.  Trong đoạn Tin Mừng hôm nay chỉ có một câu “Các thiên thần của Thiên Chúa lên xuống trên Con Người.”  Đây là sự tích lấy lại hình ảnh chiếc thang Giacóp, như một nhịp cầu nối trời và đất, Thiên Chúa và loài người.  Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh này vào bản thân Ngài: Ngài cũng là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người.  Các thiên thần góp phần tích cực vào sứ mạng trung gian ấy.

 

1. Micae là tổng lãnh tất cả các thiên thần.  Ngài đã lãnh đạo các thiên thần khác chiến đấu với Luxiphe.  Nhắc tới Ngài là người ta nhớ lại câu Ngài nói “Ai bằng Thiên Chúa?”

 

Theo sách Khải huyền của thánh Gioan thì khi ấy trên trời có một trận chiến to tát.  Một bên do Đức Micae lãnh đạo, bên kia là do Luciphe.  Micae là thiên thần dũng mãnh đã anh dũng tống cổ Luciphe và bè lũ theo hắn ra khỏi thiên đàng dưới khẩu: “AI BẰNG THIÊN CHÚA.”  Khẩu hiệu này sau đã trở thành tên của ngài.

 

Chúng ta hãy bắt chước Ngài: luôn trung thành với Chúa.  Mỗi khi chúng ta bị thế gian xác thịt cám dỗ muốn xa lìa Chúa, chúng ta hãy lập lại lời của Ngài:  Ai bằng Thiên Chúa?  Vâng!  Chẳng ai bằng Thiên Chúa cả.  Tiền bạc, vui sướng xác thịt, chức quyền không có gì sánh được với Thiên Chúa cả.

 

2. Gabriel là thiên thần truyền tin (Lc 1,19: Truyền tin cho ông Dacaria; Lc 1,26: truyền tin cho Đức Mẹ).   Ngài tuân lệnh Thiên Chúa mang sứ điệp Thiên Chúa đến cho loài người.

 

Tên Gabriel có nghĩa là “Sức mạnh của Thiên Chúa.”

 

Chính đức Gabriel đã hiện ra với tiên tri Đaniel để cho Daniel biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra.  Chính đức Gabriel đã hiện ra với Giacaria báo tin cho ông biết ông sẽ sinh được một người con trai và đặt tên là Gioan.

Luca ghi lại quang cảnh cảm động này như sau: “Khi ấy ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong đền thờ của Đức Chúa.  Sứ thần của Chúa hiện ra với ông... thấy vậy ông bối rối.  Sự sợ hãi ập xuống trên ông.  Những sứ thần bảo ông: “Này ông Giacaria, đừng sợ vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin. Bà Elizabeth vợ của ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan.”  Ông thưa lại: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy?  Vì tôi đã già và bà nhà tôi cũng đã lớn tuổi?  Sứ thần đáp lại: “Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa.  Tôi được sai đến với ông và loan báo Tin vui đó cho ông.  Và này đây ông sẽ bị câm không nói được cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không chịu tin lời tôi là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi. (Lc 1,1-20) v.v... Và sau đó mọi việc xảy ra như thế nào thì chúng ta đều đã được biết.

 

Rồi cũng theo Tin Mừng của Luca, sau sáu tháng, sứ thần Gabriel còn được Thiên Chúa gửi đến trần gian với một sứ mạng còn cao trọng hơn nhiều: Đó là sứ mạng truyền tin cho Đức Maria.  Nếu Giacaria đã ngỡ ngàng thì Đức Mẹ còn ngỡ ngàng hơn.  Việc của Giacaria với bà Elizabeth chỉ là việc giữa con người với con người.  Còn việc của Đức Maria là việc của Thiên Chúa: “Thánh thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế người con do bà sinh ra sẽ là thánh và được gọi là con Thiên Chúa.”

 

Sau tiếng Xin vâng của Đức Mẹ cả vũ trụ đều phải nhảy mừng.  Thi sĩ Hàn mặc Tử chỉ nghĩ đến biến cố này thôi cững đã phải run rẩy mà thốt lên như thế này:

“Hỡi sứ thần Thiên Chúa Gabriel.

Khi người xuống truyền tin cho thánh nữ

Người có nghe xôn xao muôn tinh tú

Người có nghe náo động cả muôn loài?”

Chúng ta hãy cám ơn Chúa vì Chúa đã thực hiện những việc lạ lùng trước mắt chúng ta.

 

3. Raphael là vị thiên thần đã đưa đường dẫn lối cho Tôbia con, nhờ đó Tôbia bình an trong cuộc hành trình nhiều nguy hiểm, cưới được vợ hiền và chữa được bệnh cho cha già.  Trước khi từ biệt gia đình Tôbia, Ngài cho biết thêm là Ngài luôn ở trước mặt Chúa để dâng những công nghiệp của loài người lên cho Thiên Chúa.

 

Cựu Ước nói về Raphael như thế này:

“Ông Tobia người Do thái thuộc chi họ Neptali bị bắt làm tôi mọi bên nước Assyria vì dân Do thái bị bại trận.  Thời gian ở đất khách quê người Tobia luôn giữ lòng trung thành làm tôi Chúa.  Ông bị tai nạn làm cho đôi mắt bị mù hoàn toàn.  Gia đình ông túng đói quá không có cách nào xoay trở.  Lúc đó ông nhớ đến món tiền trước kia ông đã cho nhà Gabelo mượn.  Ông sai người con của ông cũng có tên là Tobia - Để khỏi lầm lẫn sau này người ta gọi là Tobia-con đến nhà Gabelo để xin lại món tiền đã cho vay.  Tobia-con sẵn sàng vâng lời nhưng Tobia-con không biết đường đi.  Tổng lãnh Gabriel đã hiện ra dưới hình dạng một người thanh niên để dẫn đường.  Dọc đàng Raphael cứu Tobia-con khỏi bị cá nuốt.  Tới nơi Gabriel còn giúp cho Tobia-con cưới được vợ là Sara và đồng thời còn đòi nợ giùm cho Tobia.

 

Công việc xong,Tobia-con cùng với vợ trở về nhà.  Raphael bảo cho Tobia-con lấy mật cá mà xức vào mắt cho Tobia cha.  Tobia cha được khỏi mù, mắt được sáng trở lại, cha con Tobia hết sức vui mừng.  Đứng trước những ơn mà cả nhà vừa mới được: đòi được nợ, cưới được vợ, lại khỏi bị mù cha con ông Tobia muốn lấy phân nửa số tiền đòi được để gọi là đền ơn đáp nghĩa đối với người thanh niên đã tận tình giúp đỡ gia đình mình.  Khi ấy “người thanh niên” tốt lành đó mới tỏ ra cho cha con Tobia biết mình là thiên thần của Thiên Chúa đã được sai đến để giúp đỡ gia đình ông.  Nói xong điều đó thiên thần liền biến đi.

 

Câu chuyện của cha con Tobia cho chúng ta thấy Thiên Chúa hằng yêu thương chăm sóc những kẻ kính sợ Người.  Raphael có nghĩa là “THẦY THUỐC CỦA THIÊN CHÚA”

 

Xin được kết thúc bằng câu chuyện thật đẹp này:

 

Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và an vui trong bốn bức tường của Tu viện.  Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ngài là ông thánh nhỏ.

 

Ngày nọ, đang lúc ngài đang bắt tay vào rửa chén dĩa, thì một Thiên thần hiện ra và nói:

 

-         Thiên Chúa sai ta đến là để báo cho ngươi là giờ ngươi lìa đời đã đến.

 

Tu sĩ vẫn điềm nhiên và vui vẻ trả lời:

 

-         Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ ra vô ơn với Thiên Chúa, nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người có thể hoãn lại sau khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?

 

Nói xong, Thiên thần biến đi.  Tu sĩ trở lại công việc bổn phận một cách hăng say như quên hẳn việc gặp gỡ Thiên thần.

 

Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, Thiên thần hiện ra.  Như đoán trước ý nghĩ của Thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói:

 

-         Đây ngài xem, cỏ dại mọc đẩy vườn, liệu giờ tôi vào cõi đời đời có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không?

 

Cũng như lần trước, Thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.

 

Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh nhân, thì Thiên thần hiện ra.  Lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân nằm trên giường.  Thiên thần biến đi không nói một lời nào.  Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của mình, bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu nguyện:

 

-         Lạy Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến, con sẽ sẵn sàng theo Ngài.

 

Lời cầu nguyện vừa dứt, Thiên thần Chúa hiện đến; vị tu sĩ mừng rỡ:

 

-         Lần này, nếu Thiên thần mang tôi đi, tôi sẵn sàng theo ngài về thiên quốc.

 

Thiên thần nhìn tu sĩ với tất cả âu yếm và nói:

 

-         Này ông thánh nhỏ ơi, sao còn mơ ước về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình đã ở đâu ?

 

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Suy Niệm Chúa Nhật 26 Thường Niên B

 

ĐỨC TIN: ƠN BAN HAY ĐỘC QUYỀN?

 


Giáo hội tại Việt Nam có một số giáo xứ được gọi là “toàn tòng,” nghĩa là tất cả mọi người trong làng đều là người Công giáo.  Nơi đây, những tổ chức sinh hoạt đời sống đức tin rất thuận lợi và được mọi người hưởng ứng tham gia.  Tuy vậy, cũng có vấn đề đặt ra là tại những giáo xứ này, người tín hữu ít giao lưu với những làng xã bên cạnh, vì những làng ấy là “bên lương,” hoặc “ngoại đạo.”  Những sinh hoạt tôn giáo rất sầm uất nhưng chỉ khép kín trong khuôn khổ một làng.  Phải chăng đây là lý do làm cho việc loan báo Tin Mừng kém hiệu quả?  Trong quá khứ, đã từng có những làng Công giáo tranh chấp xung đột với làng lương dân, và để lại những mối thù truyền kiếp.  Sự khép kín, cùng với não trạng cục bộ vô tình làm cho đức tin Ki-tô giáo trở nên một thứ độc quyền.  Có nơi, người Công giáo có cái nhìn kỳ thị đối với những người không cùng đức tin với mình.

 

Xem ra tư tưởng cục bộ này “xưa như trái đất.”  Bài đọc I trích sách Dân số và Bài Tin Mừng đều cho chúng ta thấy não trạng độc quyền này.  Thời ấy, mấy thanh niên khi thấy người khác nói tiên tri thì ghen tức, và đi báo cáo với ông Môi-sen, với đề nghị ông phải ngăn cản họ.  Thánh Mác-cô ghi lại cho chúng ta vụ việc tương tự, mà người bực tức lại là ông Gio-an, có thể là Gio-an tông đồ, người sau này là tác giả của Tin Mừng thứ tư, gọi là Tin Mừng của tình yêu?

 

Ông Môi-sen và Chúa Giê-su đều có lối phản ứng giống nhau.  Ơn tiên tri không phải là độc quyền.  Ơn trừ quỷ cũng vậy.  Thiên Chúa là Cha của cả gia đình nhân loại.  Người không độc đoán và hẹp hòi như chúng ta.  Ông Môi-sen đã đưa ra một ước mơ: “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ.”  Đức Giê-su đã đưa ra một nguyên tắc: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.”

 

Giấc mơ năm xưa của ông Môi-sen nay đã được thực hiện.  Toàn dân Ki-tô giáo, tức là tất cả những ai đã lãnh nhận phép Rửa nhân danh Đức Giê-su đều trở thành ngôn sứ.  Nhờ Bí tích Thêm sức, những tín hữu được đón nhận Chúa Thánh Thần, giống y như các tông đồ xưa trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống.

 

Đức tin Ki-tô giáo không bao giờ là độc quyền cho một nhóm người nào.  Trái lại, bất kỳ ai tin vào Thiên Chúa như lời Chúa Giê-su rao giảng, thì đều được lãnh nhận Bí tích Rửa tội (hay còn gọi là Thanh tẩy).  Ơn đức tin do Chúa ban, không do công lao của con người, cũng không phải là ân huệ của Giáo Hội hay của bất kỳ người nào.

 

Vì đức tin không phải là một độc quyền, nên việc loan báo đức tin cũng được dành cho tất cả các tín hữu.  Một làng toàn tòng là nét đẹp của Giáo hội, là di sản đức tin do bao đời các bậc tiền nhân hy sinh gìn giữ.  Tuy vậy, với sứ vụ loan báo Tin Mừng, làng tòan tòng ấy phải mở ra với thế giới.  Người tín hữu phải chia vui sẻ buồn, và phải giao lưu và cộng tác với anh chị em các làng xã láng giềng, trong những hoạt động phục vụ công ích.  Nhờ mối tương quan tốt, chúng ta diễn tả hình ảnh thánh thiện của Giáo hội Chúa Ki-tô.  Làm cho mọi người biết Chúa, đây chính là lệnh truyền của Đấng Phục sinh và lời mời gọi của Giáo hội.

 

Để có khả năng làm chứng cho Chúa, trước hết người tín hữu phải củng cố và hoàn thiện đức tin nơi cá nhân mình.  Khi loan truyền Tin Mừng cho người khác, chúng ta phải là những người sống Tin Mừng.  Như vậy, chúng ta mới thực sự là những chứng nhân của Chúa Ki-tô.  Những điều kiện Chúa Giê-su nêu trong Tin Mừng như chặt chân, chặt tay, khoét mắt có thể làm cho chúng ta và những độc giả khác cảm thấy bị “sốc.  Phải chăng Chúa muốn dùng những câu ngạn ngữ dân gian, với ý nghĩa đức tin vào Chúa phải chiếm vị trí ưu tiên trong cuộc đời chúng ta.

 

Bài đọc II tiếp tục cho chúng ta nghe lời giáo huấn của thánh Gia-cô-bê.  Lối hành văn của ông rất đơn sơ mà cụ thể, đề nghị những thực hành trong đời sống hằng ngày.  Đọc đoạn văn hôm nay, chúng ta dường như nghe văng vẳng lời giáo huấn của ngôn sứ A-mốt.  Vị ngôn sứ này sống ở thế kỷ thứ tám trước Công nguyên, trong bối cảnh nam bắc phân tranh.  Ông sống ở miền Bắc, còn gọi là Vương quốc Ít-ra-en (còn miền Nam được gọi là Vương quốc Giu-đa).  Ông mạnh mẽ phê phán những người giàu có mà khinh thường người nghèo, lên án những người làm giàu bất chính do bóc lộc người khác (xem đặc biệt trong chương 4 và chương 6 sách ngôn sứ A-mốt).  Thánh Gia-cô-bê nói với chúng ta: giống như trường hợp người phú hộ giàu có dửng dưng trước nỗi khổ đau của ông La-da-rô (x. Lc 16,19-31), những kẻ bóc lột và khinh thường người nghèo sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.

 

Đức tin không phải là một độc quyền, nhưng là ơn Chúa ban.  Chúng ta phải làm cho ơn ấy lớn lên từng ngày và sinh hoa kết trái.  Chúng ta cũng có bổn phận giới thiệu đức tin cho những người xung quanh.  Những ai chỉ giữ niềm vui Tin Mừng cho riêng mình, sẽ giống như người lãnh nhận nén bạc rồi chôn xuống đất, không hề sinh lợi, sau này sẽ lãnh hình phạt (x. Mt 25,14-30).

 

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

 

Các Công Thức Trong Kinh Thánh Về Tha Thứ

 

CÁC CÔNG THỨC TRONG KINH THÁNH VỀ THA THỨ

 


Không có gì quan trọng cho bằng tha thứ.  Tha thứ là chìa khóa mở ra cho hạnh phúc và là mệnh lệnh thiêng liêng quan trọng nhất cuộc đời chúng ta.  Chúng ta cần tha thứ, cần làm hòa với những tổn thương và bất công mình đã chịu để khỏi phải chết trong giận dữ và cay đắng.  Trước khi chết, chúng ta cần tha thứ, tha thứ cho người khác, cho bản thân, cho Chúa, vì mọi sự xảy ra trong cuộc đời chúng ta.

 

Nhưng không dễ để tha thứ, thật sự nhiều lúc không thể tha thứ nổi.  Cần phải nói rõ như thế, vì ngày nay, nhiều tác phẩm đủ thể loại, với ý định tốt, đem lại ấn tượng tha thứ chỉ là vấn đề có sẵn sàng và có bỏ qua hay không.  Cứ buông bỏ và đi tiếp!

 

Nhưng chúng ta đều biết, đâu có dễ như vậy!  Những vết thương hằn lên tâm hồn thì cần thời gian, có khi là một thời gian rất dài để chữa lành, và tiến trình đó vô cùng chậm rãi, một việc mà chúng ta không thể đi nhanh được.  Thật sự, chấn thương từ vết thương cảm xúc thường tác động lên sức khỏe thể xác chúng ta.  Chữa lành cần có thời gian.

 

Khi nhìn vào vấn đề chữa lành và tha thứ, chúng ta có một thấu suốt đầy giá trị nhưng lại lãng quên từ lâu linh đạo về ngày sa-bát trong Do Thái giáo và Kitô giáo.  Giữ ngày sa-bát không phải chỉ tôn vinh một ngày nhất định trong tuần, đó là một công thức của tha thứ.  Cách nó tiến hành như sau.

 

Thần học và linh đạo về ngày sa-bát dạy chúng ta, Thiên Chúa tạo dựng thế giới trong sáu ngày và ngày thứ bảy là ngày sa-bát, ngày Ngài nghỉ ngơi.  Hơn nữa, không chỉ Thiên Chúa nghỉ ngơi ngày sa-bát mà Ngài còn tuyên bố đó là ngày nghỉ ngơi cho tất cả mọi người đến muôn đời, và như thế, Thiên

Chúa tạo một nhịp điệu nhất định cho cuộc sống chúng ta.  Nhịp điệu đó phải như thế này:

 

• Làm việc sáu ngày, nghỉ một ngày.

 

• Làm việc 49 (bảy lần bảy) năm, thì có năm đại xá, cả thế giới trải qua kỳ sa-bát.

 

• Làm việc bảy năm, nghỉ một năm (kỳ nghỉ sa-bát).

 

• Làm việc cả đời, rồi nghỉ kỳ sá-bat vĩnh hằng.

 

Nhịp điệu đó cũng nên áp dụng cho cách chúng ta tha thứ:

 

• Chúng ta có thể giữ ác cảm nhỏ trong bảy ngày, nhưng rồi chúng ta phải buông bỏ nó.

 

• Chúng ta có thể giữ ác cảm lớn trong bảy năm, nhưng rồi chúng ta cần buông bỏ nó.  (Mức hạn định dựa trên điều này).

 

• Chúng ta có thể giữ một vết thương khủng khiếp khắc sâu vào tâm hồn trong 49 năm, nhưng rồi chúng ta cần buông bỏ nó.

 

• Chúng ta có thể giữ một vết thương làm cho tâm hồn chúng ta tan vỡ cho đến chết, nhưng rồi chúng ta cần buông bỏ nó.

 

Điều này nêu bật một chuyện vốn thường không xuất hiện trong giới tâm linh và trị liệu thời nay, đó là: chúng ta cần thời gian để có thể tha thứ, và thời gian đó tùy thuộc vào mức độ của vết thương.  Ví dụ như:

 

• Khi bị đồng nghiệp xem thường trong cuộc họp, chúng ta cần chút thời gian để bực mình cho sự bất công này, nhưng thường thì một vài ngày là đủ để chúng ta hướng về phía trước và có thể buông bỏ nó.

 

• Khi chúng ta bị đuổi việc một cách lạnh lùng bất công thì bảy ngày hay bảy tuần thường không đủ để chúng ta buông bỏ và tha thứ chuyện này.  Có lẽ bảy năm thì thực tế hơn.  (Xin lưu ý “mức hạn định” phỏng theo thấu suốt Kinh Thánh này).

 

• Có những chấn thương chúng ta chịu đựng để lại vết thương sâu sắc hơn cả do bị đuổi việc bất công.

 

Có những vết thương chúng ta chịu do bị lạm dụng, thờ ơ, do nhiều năm cam chịu bất công, và chúng cần hơn bảy năm để chữa lành.  Có thể phải mất đến 49 năm, nửa thế kỷ, để làm hòa với những chuyện chúng ta bị bắt nạt khi còn nhỏ, hoặc bị lạm dụng về cảm xúc, tình dục khi còn niên thiếu.

 

• Có những vết thương quá sâu sắc đễn nỗi phải đến giờ hấp hối, chúng ta mới chỉ có thể làm hòa với sự thật là chúng đã xảy ra với mình, buông bỏ chúng và tha thứ cho người hoặc nhiều người đã gây ra chúng.

 

• Cuối cùng, có những vết thương quá sức sâu đậm, quá sức hủy hoại, quá sức đau đớn đễn nỗi chúng ta không thể xử lý trong đời này.  Với chúng, may thay, chúng ta còn có cái ôm chữa lành nhân từ của Thiên Chúa sau khi chết.

 

Năng lực tha thứ dựa vào ân sủng hơn là ý chí.  Phạm lỗi lầm là thuộc tính con người, nhưng tha thứ là thuộc tính thần thánh.  Câu đơn giản này chứa đựng một sự thật thâm sâu hơn những gì chúng ta nắm bắt thoáng qua.  Điều làm cho tha thứ trở nên khó khăn và nhiều lúc bất khả thi, không phải chủ yếu do cái tôi của chúng ta bị bầm dập và tổn thương quá đỗi.  Đúng hơn, khó khăn thực sự chính là việc một vết thương của tâm hồn cũng như vết thương của thể xác, nó làm chúng ta suy yếu.

 

Điều này đặc biệt đúng với những chấn thương in sâu vào tâm hồn và làm tan nát tâm hồn, cần đến 49 năm hay cả đời để chữa lành, hoặc có lúc không thể chữa lành trong đời này.  Những vết thương như thế làm chúng ta cạn kiệt sức mạnh, nhất là khi đối diện với người đã gây cho chúng ta, làm chúng ta rất khó để tha thứ.

 

Chúng ta cần một linh đạo sa-bát để giúp đỡ cho mình.

 

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Gặp Gỡ Thiên Chúa Đang Nói

                                         GẶP GỠ THIÊN CHÚA ĐANG NÓI




Ba Bí Quyết để Nghe Tiếng Thiên Chúa

 

Cuộc sống đầy dẫy những câu hỏi: Đâu là bí quyết để hạnh phúc?  Tại sao những điều xấu lại xảy đến cho những người tốt?  Mục đích của tôi trên trần gian này là gì?  Tại sao có sự dữ trong thế giới này? 

Trong một thế giới đề cao những giải pháp nhanh chóng, người ta có thể lo lắng khi đối diện với những câu hỏi như thế này – những câu hỏi phức tạp không thể được giải quyết bằng những khẩu hiệu đơn giản hoặc những câu trả lời chỉ có một từ.

 

Đức Giáo hoàng Benedictô XVI nói rằng cho dẫu chúng ta thích những câu trả lời nhanh chóng, chúng ta chỉ có thể hiểu được những điều bí nhiệm của cuộc sống khi chúng ta dành thời gian để đắm mình trong lời của Thiên Chúa.  Vậy chúng ta hãy xem chúng ta có thể gặp gỡ Chúa Giêsu như thế nào, Ngôi Lời hằng sống của Thiên Chúa, Lời của Thiên Chúa đã được viết trong Kinh Thánh.  Ba lời khuyên thực tế này sẽ giúp chúng ta nghe được chính tiếng của Thiên Chúa và cảm nhận được sự hiện diện của Người khi chúng ta suy gẫm lời của Người trong Kinh Thánh.

 

Hãy Đọc Kinh Thánh Hằng Ngày! “Mong sao mỗi ngày sống của chúng ta được hình thành bởi một cuộc gặp gỡ mới với Chúa Kitô,  Lời của Chúa Cha đã thành xác phàm” (Tông huấn Lời Chúa – Verbum Domini, 124).

 

Bước đầu tiên nghe có vẻ hiển nhiên, nhưng đó là bước chúng ta thường bỏ qua: sắp xếp thời gian để đọc Kinh Thánh hằng ngày.  Hãy lên lịch việc đó trong ngày sống của bạn.  Hãy làm việc đó trước hết vào buổi sáng.  Hãy làm quen với câu chuyện của Kinh Thánh để bạn có thể thấy cách Thiên Chúa đã làm việc thế nào qua các thời đại.  Hãy tự mình khám phá xem Thiên Chúa làm việc cách kiên nhẫn, dạy chúng ta đường lối của người và chuẩn bị cho chúng ta ngày Chúa trở lại.  Và đừng sợ dùng các sách chú giải và những bài nghiên cứu Thánh Kinh đáng tin cậy để giúp bạn.  Càng hiểu biết về bối cảnh, lịch sử, và ngữ cảnh của Kinh Thánh, bạn càng có thể sắp xếp câu chuyện của Kinh Thánh hơn.

 

Nhưng hãy bảo đảm rằng lúc bạn đang đọc và nghiên cứu, bạn cũng đang cầu nguyện và tìm kiếm.  Như Đức Giáo hoàng Bênêđictô  nhấn mạnh, chúng ta có thể gặp Chúa Giêsu trong những lời của Thánh Kinh.  Chúng ta có thể phát triển một mối tương quan sâu sắc với Người khi chúng ta để cho lời Người thấm nhuần vào trong tâm hồn chúng ta.

 

Điều này không xảy ra trong một sớm một chiều.  Giống như bất kỳ mối quan hệ nào, nó cần có thời gian.  Hãy suy nghĩ về bất cứ tình bạn thân thiết nào của bạn.  Không phải bạn và bạn của bạn ngày càng trân trọng nhau khi các bạn dành thời gian cho nhau sao?  Không phải các bạn đã trở nên gắn bó với nhau khi chia sẻ những thăng trầm trong cuộc sống của các bạn sao?  Các bạn ngày càng yêu nhau bởi nhờ cách các bạn chia sẻ niềm hy vọng và nỗi sợ hãi, ước mơ và những nối thất vọng của mình.

 

Không có gì có thể thay thế thời gian.  Các mối quan hệ cần thời gian.  Giao tiếp cần thời gian.  Tình yêu cần thời gian.  Vì vậy, chúng ta cần đọc Kinh Thánh mỗi ngày để có thể hiểu biết về Chúa.  Ngài nghĩ như thế nào về mọi việc?  Ngài phản ứng ra sao trước khó khăn hay may mắn?  Điều gì khiến Ngài vui hay buồn?  Những ước mơ và hy vọng của Người là gì?

 

Hãy Trở Nên Một Phần của Kinh Thánh.  “Lời Chúa lôi cuốn mỗi người chúng ta bước vào cuộc đàm thoại với Chúa: Đấng Thiên Chúa đang nói dạy ta cách để nói với Người” (Tông huấn Lời Chúa – Verbum Domini, 124).

 

Khi bạn đọc Kinh Thánh hằng ngày, hãy cố gắng tưởng tượng mình đang ở trong bối cảnh mà bạn đang đọc.  Khi đọc các sách Tin Mừng, Thánh Ignatio Loyola thường hình dung chính ngài như một trong các môn đệ của Chúa Giêsu để ngài có thể quan sát tận mắt mọi thứ đang diễn ra.  Ngài tưởng tượng chính ngài là một nhân chứng phụ trong Bữa Tiệc Ly, đang chứng kiến mọi thứ xung quanh ngài khi Chúa Giêsu cử hành Bí tích Thánh Thể lần đầu tiên.  Ngài nhìn kỹ khuôn mặt Chúa Giêsu khi Người tha thứ cho người phụ nữ phạm tội ngoại tình, hoặc khi Người thách thức những người Pharisêu và Nhóm Sađốc.  Ngài đã cùng với chị Maria Mácđala và tông đồ Gioan hiện diện ở đồi Canvariô và chứng kiến những ánh nhìn và những âm thanh trong ngày Chúa Giêsu chịu chết cho ngài.

 

Việc hòa nhập chính mình vào Kinh Thánh theo cách này không nên là một việc thụ động.  Chúng ta không nên chỉ ngồi phía sau và xem những gì đang xảy ra.  Chúng ta cũng có thể trở thành một phần của cảnh ấy.  Chẳng hạn, khi bạn hình dung chính bạn trên Núi Hôrép với Môsê và bụi gai bốc cháy, hãy cảm thấy tự do để hỏi Môsê như thể bạn nghe được tiếng của Thiên Chúa.  Hãy tưởng tượng ông đang hướng về bạn và chia sẻ với bạn những gì ông đang suy nghĩ khi Thiên Chúa nói với ông đối diện với Pharaô và yêu cầu vua thả cho dân Do Thái đi.  Bạn có thể ngạc nhiên về câu trả lời bạn nhận được.

 

Hãy bảo đảm rằng bạn không chỉ giới hạn mình vào những câu chuyện trong Kinh Thánh.  Chính Đức Giáo hoàng Benêđictô đã khuyến khích chúng ta làm điều tương tự với các thánh vịnh, được gọi là sách cầu nguyện của Kinh Thánh:

 

“Trong các Thánh vịnh, ta có thể gặp được mọi tâm tình nhân loại trong cuộc sống, được trình bày một cách khéo léo trước nhan Thiên Chúa…  Theo cách đó, lời con người thưa với Thiên Chúa lại trở thành chính Lời Thiên Chúa… và toàn thể cuộc sống con người trở thành một cuộc đối thoại với Thiên Chúa, Đấng đang nói và đang nghe” (Tông huấn Lời Chúa – Verbum Domini, 24).

 

Hãy tưởng tượng chính bạn là một trong những thánh vịnh gia khi bạn dâng tâm hồn bạn lên trước Nhan Chúa.  Và giống như các thánh vịnh gia, hãy can đảm đủ để mong đợi câu trả lời từ Thiên Chúa.  Thay vì những mối quan tâm của thánh vịnh gia, bạn hãy dâng chính những nhu cầu và ước muốn của bạn, những khao khát và hy vọng của bạn.  Hãy để cho những lời ca ngợi và tạ ơn của thánh vịnh gia trở thành của chính bạn.  Như Đức Bênêđictô nói, lời Thiên Chúa sau đó sẽ trở thành chính tư tưởng của bạn.  Đường lối của Người sẽ trở thành đường lối của bạn, đặt qua một bên bất kỳ thứ gì trong bạn đối nghịch với cách suy nghĩ của Người.

 

Hãy Lắng Đọng và Lắng Nghe. “Chỉ trong im lặng, lời Chúa mới tìm được nơi cư ngụ trong ta, như đã tìm được nơi Đức Maria, người phụ nữ của lời nhưng một cách không thể tách biệt, cũng là người phụ nữ của im lặng” (Tông huấn Lời Chúa – Verbum Domini, 66).

 

Việc đặt mình vào trong Kinh Thánh theo cách này lúc đầu có thể làm bạn cảm thấy giống như chơi trò tưởng tượng.  Làm sao bạn có thể kể lại nếu bạn không biết những điều bạn đang hình dung đến từ sự tưởng tượng của chính bạn hay từ Thiên Chúa?  Bí quyết ở đây là qua sự lắng nghe trong thinh lặng.

 

Chúng ta đang sống trong một thế giới ồn ào, năng động và tất cả các hoạt động đều có thể ảnh hưởng đến thời gian đọc Kinh Thánh của chúng ta.  Khi đặt mình vào một cảnh trong Kinh Thánh, bạn có thể bị cám dỗ đánh mất mục tiêu và để cho trí tưởng tượng của bạn chạy trốn với bạn.  Bạn có thể kết thúc bằng việc dành toàn bộ thời gian của mình để hình dung khung cảnh cách chi tiết, tưởng tượng phản ứng của mọi người và để cho câu chuyện tiếp tục mở ra.  Nhưng tất cả các hoạt động tưởng tượng này phải được cân bằng với sự thinh lặng và tĩnh lặng.  Bằng cách nào khác bạn sẽ có thể nghe được tiếng Chúa?

 

Nếu một từ hay một cụm từ hoặc một hình ảnh đặc biệt đánh động bạn, hãy dừng lại và suy gẫm về nó.  Hãy lắng đọng.  Hãy dành thời gian của bạn.  Đừng lo lắng về việc đi đến phần kết thúc câu chuyện hay kết thúc thánh vịnh.  Thay vào đó, hãy nghiền ngẫm nó.  Hãy đợi Chúa nói với bạn, Đó có thể đơn giản là những lời của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly: “Hãy tin vào Thiên Chúa”  (Ga 14,1), hoặc đó có thể liên quan đến lời tuyên bố của Thánh Phaolô rằng mọi người kêu cầu danh Chúa sẽ được cứu độ (x. Rm 10,13).  Bất kể là gì, bạn hãy dành thời gian để lời đó được mở ra.  Hãy lặp lại lời hay cụm từ đó nhiều lần, hãy hỏi Chúa xem Người muốn nói với bạn điều gì.  Hãy viết lại bất cứ ấn tượng nào bạn có thể có.  Hãy lắng đọng tâm hồn bạn, hít thở sâu và lãnh nhận bất cứ điều gì Thiên Chúa ban cho bạn.

 

Nếu các tư tưởng đến với bạn làm bạn tràn đầy bình an, niềm vui, hy vọng hay khao khát trở nên giống Chúa Giêsu hơn, bạn có thể bảo đảm rằng Chúa Thánh Thần đang nói với bạn.  Nếu các ý nghĩ làm bạn cảm thấy lo lắng, thất vọng hoặc chìm đắm trong mặc cảm tội lỗi, thì bạn có thể chắc chằn rằng chúng không đến từ Thiên Chúa.

 

Nếu các suy nghĩ đến với bạn thôi thúc bạn hành động cách khác biệt, hành động giống Chúa hơn, thì bạn có thể tự tin rằng Thiên Chúa ở đàng sau những suy nghĩ ấy.  Chẳng hạn, bạn có thể cảm thấy được thúc đẩy để thể hiện lòng nhân hậu hơn nữa với một người bạn hay một thành viên gia đình.  Bạn có thể được thôi thúc xưng thú tội lỗi quá khứ đã đè nặng trên lương tâm của bạn.  Bạn có thể thấy sự can đảm mới để dấn thân vào việc phục vụ giáo xứ.  Hoặc bạn có thể cảm thấy cần hàn gắn tình bạn bị tổn thương.  Bất kể điều gì bạn cảm nhận Thiên Chúa đang yêu cầu bạn làm, hãy bước ra và thực hiện nó.  Thông thường, bạn sẽ nhận ra rằng một bước đơn giản dẫn đến bước khác và bước khác –  mỗi bước đều kéo bạn đến gần với Chúa hơn.

 

Thiên Chúa Đấng Đang Nói.  Đức Giáo hoàng Benêđictô nói: “Không có điều ưu tiên nào lớn hơn ưu tiên này là: hãy mở ra lại cho con người ngày nay con đường đến với Thiên Chúa, một vì Thiên Chúa đang nói và chia sẻ với chúng ta tình yêu của Ngài, để chúng ta có được sự sống dồi dào” (Tông huấn Lời Chúa – Verbum Domini, 66).

 

Với những lời này, Đức Giáo hoàng Bênêđictô đang nói rằng bí quyết để có một cuộc sống bình an, đầy hoa trái và trọn vẹn hệ tại ở việc lắng nghe Thiên Chúa nói lời của Người với chúng ta.  Người đang nói với chúng ta rằng Cha trên trời muốn mở mắt chúng ta ra trước sự hiện diện và tình yêu của Người cách sâu sắc thế nào.  Tất cả những gì chúng ta phải làm là để lời Người bén rễ trong tâm hồn chúng ta.  Cuộc sống đầy dẫy những câu hỏi.  Thật tốt biết bao để biết rằng chúng ta có thể nhận ra những câu trả lời khi chúng ta cầu xin Chúa Giêsu, Ngôi Lời trọn vẹn và hoàn hảo của Thiên, nói với chúng ta!

 

Chuyển ngữ: Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương
Theo The Word Among Us