CUỘC CHIẾN ĐẤU NỘI TÂM CỦA CHÚNG TA
Hai
điều trái ngược không thể cùng tồn tại trong cùng một chủ thể. Triết gia A-rix-tốt đã viết như vậy và nghe chừng
điều đó quá rõ ràng; không thể có cái gì vừa là ánh sáng vừa là bóng tối cùng một
lúc.
Tuy nhiên, xét về
những gì đang xảy ra bên trong tâm hồn chúng ta thì dường như những điều trái
ngược thật sự có thể cùng tồn tại trong cùng một chủ thể. Bất cứ thời điểm nào, trong lòng mình, chúng
ta là sự trộn lẫn giữa ánh sáng và bóng tối, chân thành và giả trá, vô ngã và
ái ngã, đức hạnh và suy đồi, ân sủng và tội lỗi, thánh thần và tội phạm. Như cha Henri Nouwen thường nói: Chúng ta muốn
là những bậc thánh vĩ đại, nhưng cũng không muốn bỏ lỡ tất cả các cảm giác mà
những người tội lỗi trải qua. Và thế là
cuộc sống chúng ta không hề đơn giản.
Chúng
ta sống trong ánh sáng lẫn bóng tối trong lòng mình và dường như, trong một thời
gian dài, những điều trái ngược thật sự cùng tồn tại trong lòng chúng ta. Tâm chúng ta như một bãi chiến trường, nơi vô
ngã và ái ngã, đức hạnh và tội lỗi, cái gì cũng tranh nhau làm chủ. Nhưng cuối cùng, chỉ một cái này hoặc cái kia
sẽ bắt đầu làm chủ và tìm cách đánh bật cái kia ra. Đó là lý do tại sao Thánh Gio-an Thánh giá đã
chọn câu dụ ngôn triết học này và dùng nó để dạy một bài học cốt lõi về việc đi
đến chỗ khiết tịnh của con tim và khiết tịnh của ý định trong đời sống chúng
ta. Bởi vì những điều trái ngược không
thể nào cùng tồn tại trong lòng chúng ta, nên có điều cần yếu mà chúng ta cần
làm. Đó là điều gì?
Chúng
ta cần chuyên cần cầu nguyện. Những điều
trái ngược không thể nào cùng tồn tại trong chúng ta như vậy, nếu chúng ta duy
trì lòng cầu nguyện chân thành trong đời sống mình để cuối cùng sự thành tâm sẽ
đánh bật đi giảo trá, vô ngã sẽ đánh bật ái ngã, và ân sủng sẽ đánh bật tội lỗi.
Nếu chúng ta giữ lòng cầu nguyện chân
thành, thì về lâu dài, chúng ta sẽ không bao giờ rơi vào lý luận biện hộ cho tội
lỗi. Nếu chúng ta duy trì cầu nguyện
chân thành trong đời sống thì chúng ta sẽ không bao giờ nhắm mắt làm ngơ trước
tội lỗi của mình, và cứ như vậy tới mức chúng ta bắt đầu có những vùng miễn nhiễm
về đạo đức trong đời sống của mình. Trung thành với cầu nguyện sẽ bảo đảm chúng ta
không bao giờ, về lâu dài, sống đời hai mặt bởi vì những gì lời cầu nguyện đưa
vào đời sống chúng ta, một sự có mặt chân chính của Chúa, sẽ không sống chung
hòa hợp với ái ngã, tội lỗi, lý luận biện hộ cho tội lỗi, tự huyễn, và giảo
trá. Nói nôm na, đến một lúc nào đó
trong đời, chúng ta hoặc sẽ thôi cầu nguyện hoặc thôi hành xử tệ hại. Chúng ta sẽ không thể nào sống cả hai thứ trái
ngược. Như vậy mối nguy hiểm lớn nhất của
chúng ta là ngừng cầu nguyện.
Và
đây là lời khuyên vô cùng hữu dụng: Chúng ta không thể lúc nào cũng kiểm soát
được việc mình cảm thấy như thế nào về mọi chuyện. Chúng ta không thể lúc nào cũng kiểm soát được
chuyện mình bị quyến dụ ra sao. Và không
ai trong chúng ta có sức mạnh để không bao giờ rơi vào tội lỗi. Chuyện chúng ta không có khả năng thực hiện đạo
đức mong muốn cho bản thân khiến chúng ta luôn luôn không thể thánh thiện đầy đủ.
Có những điều vượt ngoài khả năng của
chúng ta.
Nhưng
có đôi điều chúng ta có thể kiểm soát, những điều vượt quá con ngựa cảm xúc và
cám dỗ bất kham. Chúng ta bị nhiều thứ
vây bủa, nhưng chúng ta có thể chuyên cần có mặt để cầu nguyện, theo ý chí của
mình, có chủ tâm, với kỷ luật và quyết tâm. Chúng ta có thể cầu nguyện riêng theo kỷ luật
chuyên cần trong cuộc sống của mình. Chúng
ta có thể hứa với chính mình phải có thói quen cầu nguyện riêng. Và, nếu làm như vậy, thì bất luận sự thực
chúng ta sẽ phải chịu một thời gian dài khô khan và chán nản, cuối cùng những
gì lời cầu nguyện đưa vào đời sống chúng ta sẽ đánh bật ra các thói quen xấu,
những lý luận biện hộ cho tội lỗi, và tội lỗi của chúng ta. Hai điều trái ngược nhau không thể cùng tồn tại
trong cùng một chủ thể. Cuối cùng chúng
ta hoặc sẽ phải thôi cầu nguyện hoặc sẽ từ bỏ tội lỗi và lý luận biện hộ cho tội
lỗi. Không ai có thể vừa cầu nguyện chân
thành một cách đều đặn lại vừa nhắm mắt làm ngơ trước tình trạng tội lỗi của
mình.
Vậy
thì, nhiệm vụ của chúng ta là duy trì việc cầu nguyện riêng như một thói quen
trong cuộc sống, kể cả khi chúng ta không có cái nhìn sâu sắc lẫn không có lòng
can đảm để nhìn nhận và giải quyết tất cả các kiểu tiêu chuẩn kép và những điểm
mù-đạo-đức trong đời sống của mình. Những
gì đi vào đời sống chúng ta qua lời cầu nguyện, mà thường thì khó cảm nhận hơn
là dễ thấy, cuối cùng sẽ đánh bật ra (“hóa cứng,” nói theo lời thánh Gio-an
Thánh giá) tội lỗi của chúng ta lẫn những lý luận chúng ta biện hộ cho nó.
Điều
này gần với lời Ronald Knox từng dạy về phép Thánh thể. Đối với ông, phép Thánh thể là nghi thức có
tính cách nâng đỡ, cốt yếu, duy nhất trong đời sống Ki-tô hữu. Tại sao? Bởi vì Knox tin rằng, là Ki-tô hữu, chúng ta
chưa bao giờ thật sự sống theo những gì Chúa Kitô yêu cầu. Chúng ta chưa bao giờ thật sự yêu thương kẻ
thù mình, chìa má kia ra, chúc phúc cho những ai nguyền rủa chúng ta, sống đời
quang minh chính đại trọn vẹn, hay tha thứ cho những ai đã làm chúng ta tổn thương.
Nhưng, ông nói, chúng ta đã trung thành
với Chúa chủ yếu theo cách: Chúng ta đã trung thành với phép Thánh thể, trung
thành với mệnh lệnh duy nhất đó.
Ngay
trước khi từ giã chúng ta, Chúa Giêsu đã ban phép Thánh Thể và yêu cầu chúng ta
tiếp tục dâng phép Thánh Thể cho tới khi Người quay trở lại. Hai ngàn năm nay, trong khi chờ đợi sự quay trở
lại đó, chúng ta đã trung thành với phép Thánh Thể, dù chúng ta đã trở nên bất
trung xét theo các khía cạnh khác. Chúng
ta đã tiếp tục dâng phép Thánh Thể, và cuối cùng, hơn bất cứ điều gì khác, đó
là điều duy nhất gọi chúng ta, liên tục liên hồi, trở lại với lòng trung tín.
Thói
quen cầu nguyện riêng cũng sẽ làm được điều đó cho chúng ta. Bởi vì hai điều trái ngược không thể nào cùng
tồn tại trong một chủ thể, cuối cùng chúng ta hoặc sẽ thôi cầu nguyện hoặc
chúng ta sẽ không phạm lỗi và lý luận biện hộ cho tội lỗi nữa. Mối nguy hiểm đạo đức lớn nhất trong đời sống
là chúng ta ngừng cầu nguyện!
Rev.
Ron Rolheiser, OMI