LÊN
NÚI
Trong truyền thống Thánh
Kinh, núi cao thường được coi như nơi thuận tiện để con người được gặp gỡ Thiên
Chúa. Ba
tháng sau khi ra khỏi Ai Cập, các vị kỳ lão đại diện cho Dân Do Thái được ông
Môisen dẫn lên đỉnh núi Sinai để gặp Chúa. Tại đây Chúa ban cho họ Luật Giao ước (x. Xh
chương 19). Ngôn
sứ Elia trong cuộc chạy trốn vua Akháp đã đi bốn mươi ngày đêm để đến núi
Horeb. Ở
đó, ông được gặp Chúa và tìm được sức mạnh để có thể đối diện với những khó
khăn trong sứ mạng (x. 1V chương 19). Trong Tân ước, núi cao cũng
là những địa điểm gắn liền với giáo huấn của Chúa Giêsu. Chính
trên núi cao mà Người giảng tám mối phúc thật, được coi như Luật Mới của Tin Mừng.
Cũng
trên đỉnh núi, người biến hình đổi dạng trước mặt ba môn đệ. Và
cuối cùng, trên núi cao, Đấng Phục sinh đã gặp gỡ các môn đệ và sai các ông đi
khắp thế gian để tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng mà Người đã thực hiện khi còn
tại thế.
Để lên được núi cao, con người
phải buông bỏ những ràng buộc. Người nào mang quá nhiều hành trang sẽ khó có
thể tới đỉnh núi. Lên
núi thiêng liêng là bỏ bớt những tham lam ích kỷ, những toan tính nhỏ nhen để
con người thanh thoát. Chỉ
khi nào chấp nhận buông bỏ, chúng ta mới gặp được Chúa. Có
hai cuộc lên núi được đề cập trong Lời Chúa hôm nay, đó là Bài đọc I trích sách
Sáng thế và Bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô.
Ông Abraham sinh được một mụn
con vào lúc đã một trăm tuổi và ông đặt tên là Isaac. Tên
gọi này có nghĩa là “Thiên Chúa làm cho tôi cười,” như chính bà Sara vợ ông đã giải thích (x. St 21,1-7). Chẳng
cần phải nói, chúng ta cũng biết hai ông bà yêu quý cậu con trai nối dõi tông
đường này thế nào, vì đây là niềm hy vọng và là niềm vui duy nhất của ông ở tuổi
xế chiều. Tuy
vậy, Chúa muốn thử thách lòng trung thành của Abraham, và Ngài truyền cho ông
sát tế con mình làm của lễ toàn thiêu trên một ngọn núi. Dưới
ngòi bút của tác giả, Abraham được diễn tả như một người kiên định và hoàn toàn
phó thác vào Chúa. Đối
với ông, thánh ý Chúa là điều tối quan trọng, những điều khác chỉ là vô nghĩa,
kể cả đứa con độc nhất của mình. Nếu Abraham đã trung thành với
Chúa, thì Chúa không bỏ rơi ông. Chúa có cách can thiệp của
Ngài. Chính
Chúa sẽ tìm ra một giải pháp, một lối thoát cho hoàn cảnh này. “Chính
Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ!” – lời nói của Abraham với con mình đã khẳng định sự
xác tín của ông. Và,
quả thật là Chúa sẽ liệu, như chúng ta thấy ở phần kết của câu chuyện. Ngọn
núi từ đó được mang tên “Núi Đức Chúa sẽ liệu.” Qua vị sứ thần, Thiên Chúa đã ghi nhận lòng
vâng lời, trung thành và tín thác của ông, khi ông không ngần ngại sát tế đứa
con thừa tự của mình. Chính
do lòng trung thành này mà Thiên Chúa hứa cho ông những điều tốt đẹp ở tương
lai. Đó
là một dòng dõi đông đảo và được chúc phúc.
Cuộc lên núi thứ hai được diễn
tả như một cuộc thần hiện của Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Tác
giả Mác-cô cẩn thận ghi rõ chi tiết thời gian “sáu ngày sau” ở đầu trình thuật.
Đó
là sáu ngày sau khi Chúa Giêsu loan báo lần thứ nhất cuộc thương khó và phục sinh.
Trước
lời loan báo này, xem ra các ông không hiểu gì. Vậy nên ông Phêrô mới can
gián Người và bị Người gọi là Satan (x. Mc 8,33). Chính
trong bối cảnh ấy là Chúa dẫn ba môn đệ thân tín lên núi và Người biến hình đổi
dạng trước mắt các ông. Ba
môn đệ đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan đã được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình
trên núi.
Các ông ngỡ ngàng trước cảnh
tượng mà các ông nhìn thấy. Nơi đây, các ông chứng kiến
một cuộc “thần hiện” huy hoàng: Chúa Giêsu không còn dáng vẻ của một người thường
như mọi ngày, nhưng Người đã tỏ hiện vinh quang Thiên Chúa, vinh quang sáng ngời,
quyền năng mạnh mẽ. Bóng mây bao phủ và tiếng nói từ trời là cách
diễn tả Thiên Chúa Cha. Ngài
giới thiệu cho mọi người biết sứ mạng Thiên Sai của Con Một Ngài. Hai
nhân vật nổi bật của Cựu ước, ông Môisen tượng trưng cho Lề Luật, ông Elia tượng
trưng cho truyền thống ngôn sứ, đều hiện ra cùng lúc để làm chứng về Chúa
Giêsu. Đối với độc giả Do Thái, khi đọc những dòng
trình thuật này, chắc chắn họ không thể thắc mắc gì về sứ mệnh thiên sai của Đức
Giêsu. Người
là Đấng được Lề Luật và các Ngôn sứ loan báo từ ngàn xưa, nay đã đến để cứu độ
con người. Ba
môn đệ là những người được biến đổi trước hết. Nếu trước đó sáu ngày, ông
Phêrô còn ngờ nghệch và nghi nan, thì hôm nay khi chứng kiến Chúa biến hình,
ông lại choáng ngợp trước vẻ huy hoàng của cuộc biến hình. Ông
đã ngỏ lời làm ba lều, một cho Chúa, một cho ông Môisen và một cho ông Elia. Tác
giả Phúc âm không quên chú giải thêm: ông không biết mình nói gì, vì kinh
hoàng. Khi
chứng kiến cuộc “thần hiện” này, quan niệm về Đấng Thiên sai nơi ba tông đồ
không còn mang những nét trần tục, nhưng hoàn toàn thần thiêng. Nhờ
sự biến đổi này, các ông xác tín vào Thày mình, Đấng họ đã từ bỏ mọi sự mà tin
theo.
Trong cuộc sống thường nhật,
giữa bao nhiêu bon chen tính toán trần tục, chúng ta thường bị cám dỗ và có
nguy cơ trở nên tầm thường, ti tiện trong ứng xử. Mùa
Chay là mùa “lên núi” để tập sống tinh thần của Abraham, tín thác cậy trông vào
Chúa. Mùa
Chay cũng là mùa lên núi như các tông đồ để cảm nhận rõ hơn sứ mạng của Đấng Cứu
thế, với xác tín Người đang hiện diện giữa chúng ta. Theo
Chúa chính là một cuộc leo núi, kiên trì, liên lỉ. Trong
cuộc leo núi, có nhiều người bỏ dở ngang đường vì không đủ can đảm trút bỏ những
vướng víu ngăn cản tiến lên. Mùa Chay giúp ta nhìn lại chặng
đường mình đã đi, nhiều khi không phải là lên cao nhưng trái lại, đang là những
tụt dốc, làm chúng ta càng ngày càng trở nên xa Chúa và xa rời anh chị em mình.
Sám
hối ăn năn, giao hòa với Chúa và với anh em, từ bỏ lối mòn của quá khứ để dám
lên đường khởi đầu một hành trình mới, đó chính là một cuộc “lên núi” thiết thực
đối với chúng ta.
“Chúa không hứa ban cho chúng
ta một cuộc hành trình êm ả, Người chỉ hứa giúp ta đến đích an toàn” (John
Gower – Thi sĩ người Anh, thế kỷ 14).
TGM Giuse Vũ Văn
Thiên