Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã định nghĩa về Đức tin như sau: “Tin
không gì khác hơn là sờ chạm được vào bàn tay Thiên Chúa trong đêm đen của trần
thế, và cứ thế - trong tĩnh lặng - lắng nghe Ngài, nhìn thấy tình yêu”. Định
nghĩa này được nói trong bài huấn từ kết thúc tuần tĩnh tâm cho giáo triều ngày
23-2-2013, trước ngày chấm dứt sứ vụ Giáo Hoàng. Vì thế, ta có thể coi đây như
một di chúc của vị Giáo Hoàng trước khi rút lui vào đời sống chuyên tâm cầu
nguyện. Với tư cách là một nhà thần học lớn của Giáo Hội, Đức Bênêđitô XVI đã
đưa ra nhiều định nghĩa về đức tin. Dù mỗi định nghĩa nhấn mạnh tới một khía
cạnh, nhưng tất cả đều diễn tả sự gặp gỡ, tiếp xúc, tín thác nơi một Đấng đang
hiện diện cụ thể trong đời.
Trong thư gửi cho Timôthê là người môn sinh của mình, Thánh Phaolô
đã viết: “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2Tm 1,12). Thư này được viết trong tù,
vào lúc Phaolô cảm thấy mọi người đều bỏ rơi mình. Ông thấm nỗi cô đơn, chưa
biết tương lai sẽ như thế nào. Giữa chốn lao tù, trong cảnh xiềng xích, Phaolô
vẫn kiên vững một niềm tin, vì ông xác tín Thiên Chúa là “Đấng có đủ quyền năng
bảo toàn giáo lý đã được trao phó cho tôi, mãi cho tới Ngày đó” (2Tm,1,12).
Người ta dễ dàng tin tưởng vào Chúa khi gặp những điều tốt lành trong cuộc
sống. Tuy vậy, giữa cơn phong ba bão táp của cuộc đời, để tuyên xưng đức tin
vào Chúa, đòi hỏi phải có lòng kiên định đến mức anh hùng. Ông Gióp trong Cựu
ước đang có một cuộc sống phong lưu đầy đủ, bỗng chốc rơi vào cảnh cùng cực:
mất hết của cải và con cái. Bạn bè, người thân, thậm chí người vợ cũng xa lánh.
Ông phải ngồi trên đống tro. Hình ảnh này vừa diễn tả cảnh cùng khốn, vừa cho
thấy ông khiêm tốn sám hối. Trong hoàn cảnh đó, ông Gióp vẫn kiên định và cố
gắng để không xúc phạm Chúa. Ông vẫn tin vào Chúa mặc dù ông không hiểu việc
Ngài làm. Ông vẫn biện minh cho sự vô tội của mình và không chấp nhận lý luận
của những người bạn đến thăm. Đó là kết quả của một niềm tin vững vàng, một
niềm cậy trông tín thác nơi Chúa. Khi kiên định trong đau khổ, chắc chắn ông
Gióp cũng thốt lên điều mà Phaolô sau này tâm niệm: tôi biết tôi đã tin vào ai.
“Ai” mà Phaolô nhắc đến không phải là một nhân vật huyền thoại mơ
hồ. Vị đó là một Đấng cụ thể, là Thiên Chúa tối cao. Ngài là Thiên Chúa của
Abraham, của Isaac, của Giacóp, tức là của các tổ phụ Israen. Ngài là Thiên
Chúa, Đấng đã can thiệp trong lịch sử để hướng dẫn, tha thứ và chúc lành cho
con người của mọi thời đại. Đấng ấy đang hiện diện trong cuộc đời. Ngài đã
chinh phục Phaolô và biến đổi ông từ một người bách hại các tín hữu đến một vị
tông đồ nhiệt thành, dấn thân truyền giáo cho các dân ngoại. Trải qua vô số
gian truân trong các hành trình truyền giáo, ông đã cảm nhận rõ ràng Chúa luôn
ở với ông. Ngài soi sáng hướng dẫn và ban cho ông sức mạnh, để ông can đảm
nhiệt thành thực thi sứ vụ.
Trong chốn lao tù, đêm đen của trần thế, Phaolô đã chạm được vào
bàn tay của Thiên Chúa và ông đã để Ngài dẫn dắt trong thinh lặng. Mặc dù những
người thân đã xa lánh, nhưng ông biết vẫn có Chúa hiện diện ở đó, bên cạnh ông,
để chia sẻ gian nan trong ngục tối và để thêm sức cho ông. Ông cũng tin rằng,
trong bất cứ tình huống nào, ông cũng không nản lòng, vì “Ơn Ta đủ cho con”,
như lời Chúa đã cam kết (2Cr 12,9). Chính nhờ sự xác tín vào Thiên Chúa, mà
Phaolô can đảm lên đường truyền giáo, dẫu biết rằng khó khăn và thử thách đang
chờ đợi ở phía trước. Trong lời từ biệt tín hữu Ephêxô, Phaolô đã nói với họ:
“Giờ đây, bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giêrusalem, mà không biết những gì sẽ
xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng
khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống
tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu
toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin Mừng về
ân sủng của Thiên Chúa” (Cv 20,22-24). Chỉ một khi biết rõ Đấng mình tin tưởng
là ai, thì thánh nhân mới có cam đảm và kiên vững trước mọi phong ba bão táp
như vậy.
Người tín hữu tức là người tin vào Chúa. Tuy vậy, đối với nhiều
người, “tin vào ai” hoặc “tin như thế nào” vẫn là một điều mơ hồ. Một khi xác
tín: “Tôi biết tôi đã tin vào ai”, người tín hữu sẽ an tâm phó thác để Chúa dẫn
đường, dù qua bao cơn nguy khốn. Đó là niềm tín thác của một em bé đơn sơ, đang
ở trên một con tàu có cha mình làm thuyền trưởng. Mặc dù phong ba bão táp dữ
dội, em vẫn tin chắc cha em sẽ điều khiển con tàu tới bến an toàn. Tình yêu mến
và sự tin tưởng nói với em rằng: cha em là người giỏi nhất thế gian này. Niềm
xác tín nơi Chúa cũng giúp chúng ta tìm thấy sự bình an, như em bé ngủ yên
trong lòng mẹ, thư thái và an bình, vì chẳng có nơi đâu trên thế gian an toàn
và ấm áp hơn.
“Tôi biết tôi đã tin vào ai”. Niềm xác tín ấy cũng giúp chúng ta
có sức mạnh. Tác giả thư Do Thái đã viết: “Chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và
tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta,
mắt hướng về Đức Giêsu Kitô là Đấng khai mở và kiện toàn Đức Tin” (Dt 12,1).
Cuộc sống này là một cuộc đua. Ai muốn nhành nguyệt quế phải kiên trì và chấp
nhận những khổ chế hy sinh. Trong cuộc đua thiêng liêng, người tín hữu nhận
được sức mạnh nhờ niềm tin vào Đức Giêsu. Họ chắc chắn Người đang ở bên họ để
tăng thêm sức mạnh, khích lệ động viên và giúp họ về đích trong vinh quang.
Một ngày nọ, tại Xêdarê, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ: “Người ta
nói Con Người là ai? ... Các anh bảo Thày là ai?” (x. Mt 16, 13-20). Câu hỏi
này khiến các ông ngỡ ngàng. Họ đã theo Chúa được vài năm rồi, mà xem ra chưa
lúc nào đặt vấn đề nghiêm túc về căn tính của thày mình. Sau này, sau khi phục
sinh, Người cũng hỏi Phêrô ba lần: “Simon con ông Gioan, con có yêu mến Thày
hơn những người này không?” (Ga 21,15). Câu hỏi này cũng làm cho Phêrô lúng
túng. Ông chỉ biết trả lời : “Lạy Thày, Thày biết rõ mọi sự. Thày biết con yêu
mến Thày” (Ga 21,17). Nếu đối với câu hỏi ở Xêdarê, Phêrô đã tuyên xưng đức
tin, thì lúc này, ông khẳng định lòng mến. Lòng mến ấy chân thành và tha thiết,
có Chúa biết và làm chứng cho ông. Nhận biết Chúa là ai và thành tâm yêu mến
Người, đó là những câu hỏi vẫn đang được đặt ra cho những ai muốn trở thành môn
đệ của Chúa Giêsu, bởi vì Người không chấp nhận một đức tin mờ ảo hay một tình
mến nửa vời.
Trong cơn lốc cuộc đời hôm nay, một hiện tượng xem ra càng ngày
càng phổ biến tới mức báo động, đó là lối sống đức tin hời hợt, thiếu chiều
sâu. Con người vẫn khao khát Thiên Chúa, vẫn đi tìm kiếm Ngài. Tuy vậy, thay vì
tìm kiếm một hình ảnh đích thật về Thiên Chúa, nhiều người chỉ chạy theo những
ảo ảnh hoặc những “thượng đế” do họ tưởng tượng và bày vẽ ra. Nếu từ ban đầu,
Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh của Ngài, thì trong xã hội
thời nay, đang có một khuynh hướng ngược lại, đó là con người tạo dựng một
“thiên chúa” theo hình ảnh mình, phù hợp với những tham vọng sở thích trần tục
và dễ dãi. Do đó mà càng ngày càng xuất hiện nhiều hình thức mê tín dị đoan.
Tôn giáo có nguy cơ trở thành một mớ đa thần hỗn loạn. Tình trạng buôn thần bán
thánh, lo lót cho các vị thần để thăng quan tiến chức ngày càng ăn sâu vào não
trạng của người dân, ngay cả một số lớn các quan chức và giới trí thức.
Đối với số đông người tín hữu công giáo, việc dạy và học giáo lý
không được quan tâm. Nhiều người tự cho việc đi lễ mỗi tuần một lần là đủ “bổn
phận” của người có Đạo. Hậu quả của lối sống Đạo thiếu giáo lý là một đức tin
sơ sài, chỉ chú trọng đến bề nổi và những sinh hoạt kiểu hội hè, nặng tính thế
tục. Cũng vậy, một số người có thói quen lượng giá đời sống đức tin của một
cộng đoàn qua những bộ đồng phục hoặc những tổ chức bên ngoài mà ít nhấn mạnh
đến đời sống nội tâm và tình bác ái. Họ tin Chúa, nhưng chưa hiểu rõ Chúa là ai
đối với họ. Chính vì vậy, khi gặp gian nan thử thách, họ dễ ngã lòng và chao
đảo. Đó là những người mang danh có Đạo, nhưng lại không biết mình tin vào ai.
“Tôi biết tôi đã tin vào ai”. Đó phải là lời khẳng định của mỗi
người tín hữu, nếu họ muốn sống đúng với danh xưng này. Niềm xác tín ấy không
dừng lại ở một công thức, hay một lời tuyên xưng nơi môi miệng, nhưng là kim
chỉ nam cho đời sống hằng ngày và chi phối bao trùm trọn vẹn con người của mỗi
chúng ta.
Mùa Phục Sinh 2017
Gm Giuse Vũ Văn Thiên