Chuyện kể một nhà buôn nọ rất sùng đạo. Mặc dầu
vất vả làm ăn nhưng anh ta không bao giờ bỏ việc khấn vái với thần thánh. Gặp
kỳ cạnh tranh gay gắt trong công việc, anh ta càng gia tăng lời khẩn cầu gấp
bội.
Động lòng trắc ẩn, một hôm thần tiên hiện ra với
anh và nói: "Thấy nhà ngươi thành tâm cầu xin nên ta không nỡ chối từ.
Thôi thì bây giờ cứ cho ta biết ngươi muốn gì, ta sẽ ban cho... và đồng thời để
tỏ cho nhân gian biết lòng quảng đại của ta thì hễ ban cho ngươi điều chi, ta
cũng ban cho đồng nghiệp hay hàng xóm của ngươi như thế... và có khi gấp đôi
luôn".
Nghe thần phán, lòng anh thương gia chuyển từ
vui mừng hân hoan qua sầu buồn lo lắng. Anh tự nhủ: "Nếu bây giờ mình xin
một chiếc Lexus thì mấy thằng bạn...chúng nó sẽ được hai chiếc. Ái dà, thế thì
không được! Nhưng nếu mình xin cho được trúng số 5 triệu thì mấy nhà hàng
xóm... họ sẽ được tới 10 triệu. Thế lại càng không được! Còn nếu mình xin cho
có vợ đẹp con khôn thì coi chừng đồng nghiệp sẽ có vợ đẹp gấp đôi vợ mình, con
khôn gấp đôi con mình. Đó là chưa nói tới chuyện chúng nó được hai vợ, trong
mình chỉ có một... Thời buổi cạnh tranh như thế này thì phải làm sao cho hơn
người chứ. Nhưng xin như thế thì làm sao mà hơn được".
Chàng thương gia nhíu mày đắn đo. Một lát sau,
chợt anh ta reo lên như vừa tìm ra điều gì thú vị. Anh đến quì xuống và thưa
với thần: "Lạy ngài, xin vui lòng cho tôi đui một con mắt".
Quả là một lời khẩn cầu
quái lạ! Không xin cho mình được may mắn vì sợ người khác trỗi hơn. Song lại
xin cho mình rủi ro để kẻ khác sẽ bị tổn hại nhiều hơn. Xin cho mình đui một
con mắt để kẻ khác mù luôn. Đây quả là tiểu nhân và quá dã tâm.
Thế nhưng, nếu thành
thật rà soát lòng mình thì không chừng tính chất dã nhân và tiểu tâm kia, tức
là những đố kỵ, ghen ghét, nhỏ nhen, tàn bạo lại đang ẩn nấp đâu đó trong người
tôi, để rồi nếu được thành công may mắn hơn ai thì nó sẽ nằm im bất động. Thảng
hoặc, nó còn tỏ ra "quảng đại" và "thương xót" kẻ không
may. Nhưng nếu ai đó trổi vượt hơn mình thì cái chất tiểu tâm và dã nhân kia sẽ
bùng lên khó lòng dập tắt.
Chính cái chất đố kỵ,
ghen tương, so bì kia đã là mầm mống của boa chia rẽ, bè phái, tranh chấp, phân
ly, giận hờn, đui chột, mù loà trong cộng đồng nhân loại. Lắm người chẳng chịu
nhường bước ai; điều gì của mình cũng đúng hơn, đẹp hơn, tốt hơn, và như thế kẻ
khác tất phải sai hơn, xấu hơn, và dở hơn.
Tình trạng hơn thua làm
nảy sinh phe nhóm bè phái, cùng với bao tranh chấp ghét ghen, không chỉ xảy ra
ngoài đời, trong các đoàn thể chính trị xã hội, nhưng phải đau lòng mà nói: có
khi nó còn xuất hiện trong những tổ chức manh danh có đạo, hay thuộc về Giáo
hội.
Và đâu phải chỉ có trong
Giáo hội của thời đại hôm nay, nhưng từ thời sơ khai, hiện tượng tranh chấp,
phe nhóm, cũng đã xảy ra: "Tôi, tôi về phe Appolo. Tôi, tôi về phe Phaolô.
Còn tôi, tôi về phe Kêpha Phêrô".
Sự phân chia phe nhóm
trong cộng đoàn thế kia, một phần là do các sở thích và tình cảm cá nhân quá
nặng. Một số thấy Phaolô là con người cương trực, ăn thẳng nói ngay, nên phục
và mến lắm. Nhưng số khác thì không chịu nổi tính khí đó, nên đã chạy theo
Phêrô, vị này vừa là thủ lãnh tông đồ lại vừa "dễ dãi, sao cũng
được". Thơ Galat có kể rằng khi vắng mặt các thành viên Do thái trong cộng
đoàn thánh Giacôbê, Phêrô đã ngồi ăn chung, uống chung với dân ngoại, nhưng khi
thấy họ đến thì ông lại tránh đi. Thế nên một lần kia Phaolô đã trách Phêrô
trước mặt mọi người: "Nếu ông, một người Do thái, ông còn sống như người
ngoại chứ không như người Do thái, thì làm sao ông lại thúc bách người ngoại sống
như Do thái được?" (Gal 2:14).
Có lẽ vì Phêrô "dễ
dãi" như thế nên nhiều người thích và đi theo ủng hộ. Trong khi đó một số
người khác lại khoái Apollo. Ông này ăn nói lưu loát, có khả năng diễn thuyết
hùng hồn, bao biện luận để minh chứng Chúa Giêsu là Đức Kitô thật là sắc bén và
chí lý. Thế nên họ thích nghe hơn, và rồi cái gì Apollo nói cũng đúng, cũng
hay; còn Phaolô thì cứng quá, và Phêrô lại mềm mỏng quá.
Những khuynh hướng lưu
luyến và tình cảm nặng tính cá nhân đó đã tạo nên phân rẽ trầm trọng trong cộng
đồng Dân Chúa thời sơ khai, đến nỗi Phaolô đã kêu lên: "Nhân danh Đức
Giêsu Kitô, tôi nài xin anh em hãy lo cho được đồng tâm hiệp ý với nhau. Đừng
chia rẽ, nhưng hãy đoàn kết trong cùng một thần trí và một tâm tình". (1
Cor 1:10).
Thiết tưởng, lời kêu gọi
đó vẫn còn vang vọng cho đến hôm nay, trong mọi cơ cấu tổ chức của giáo xứ,
cộng đoàn, và gia đình. Hãy đồng tâm ý hiệp với nhau. Đừng vì khuynh hướng, sở
thích, quan điểm, hay tình cảm cá nhân chi phối mà ủng hộ, hợp tác với người
này người nọ hoặc chống đối, chê bai, lạnh lùng với người kia.
Lời thánh Phaolô vẫn còn
đó: Đức Kitô bị phân chia rồi sao? Chân lý và Tin mừng của Đức Kitô bị xé mãnh
rồi sao? Và Tin mừng làm sao có được trong ghen ghét, tị hiềm, đố kỵ, phân ly,
xâu xé. Có chăng chỉ là tin buồn thôi.
"Nhân danh Đức
Kitô, tôi nài xin anh em hãy liên kết trong cùng một thần trí và một tâm
tình". Thần trí đó là thần trí yêu thương, và tâm tình đó là tâm tình
khiêm hạ. Chớ ao ước những điều bất chính, khổ đau cho kẻ khác. Đừng muốn mình
chột để người ta bị mù. Nhưng hãy cầu cho nhau những sự may lành. Hãy "vui
với người vui", vì điều đó đôi khi còn khó hơn "khóc với người
khóc". Hãy tạ ơn Thiên Chúa cho nhau. Và điều quan yếu, hãy hiệp nhất với
nhau.
Hiệp nhất chính là tinh
thần và sứ mạng của Chúa Giêsu mà những ai tự xưng là môn đệ của Ngài phải tiếp
nối. Bởi lẽ Chúa Giêsu đến thế gian không mục đích nào khác hơn là gieo trồng
hiệp nhất: hiệp nhất con người lại với Thiên Chúa, hiệp nhất con người lại với
nhau, hiệp nhất bao tan vỡ tâm hồn hầu qua đó tình thương của Thiên Chúa, bình
an từ trời cao, và niềm vui ơn cứu độ được tuôn trào đến khắp trần gian.
Tình thương, bình an, và
niềm vui đó cũng chính là phần thưởng muôn đời cho những ai can đảm bước trên
con đường mà Đức Giêsu đã đi.
Lm Bùi Quang Tuấn