Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

 

NĂNG LỰC THÁNH THẦN

 


Trước ngày Chúa Thánh Thần đến, các Tông Đồ sống lẩn trốn trong phòng.  Một sứ vụ lớn lao được trao phó cho các ngài nhưng vì các ngài chưa có sức mạnh và ý hướng để thi hành sứ vụ đó.  Chỉ sau ngày Thánh Thần đến, các ngài trở nên những con người được biến đổi hoàn toàn.  Các ngài bắt đầu rời bỏ những nơi ẩn trốn và bắt đầu trở nên can đảm rao giảng Tin Mừng.

 

Vậy Thánh Thần đã làm gì trên các ngài?  Trong lời hứa ban Thánh Thần, Chúa Giêsu nói với họ: "Khi Thánh Thần đến, các con sẽ nhận được sức mạnh và sẽ làm chứng cho Thầy không phải chỉ ở Giêrusalem, nhưng... đến tận cùng trái đất" (Cv 1,18).

 

Thiết nghĩ, từ chìa khóa trong lời hứa ấy chính là sức mạnh.”  Đây chính là thứ mà các Tông Đồ đang cần nhất.  Vì ngay giờ phút đó, các ngài trở nên mạnh mẽ và hoàn toàn loại bỏ được yếu hèn, sợ hãi những mặc cảm... trước đó.  Họ đã mạnh mẽ thực hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa Giêsu cách công khai.  Sau cùng các ngài đã làm chứng về những gì đã xảy ra nơi Đức Giêsu.  Họ cần sự can đảm, cần một ai đó ban sức mạnh cho họ.

 

Việc trao ban năng lực là một trong những từ ngày nay dùng với ẩn ý sâu xa.  Điều này hoàn toàn có nguyên nhân chính đáng.  Chúng ta thử quan sát một vài cá nhân hay một nhóm người mà ban đầu họ cảm thấy bất lực trước tình huống khó khăn, nhưng thình lình họ trở nên có khả năng để xoay chuyển tình huống ấy khi có một ai đó thêm sức mạnh cho họ.  Chúng ta thấy trong một đội bóng đá, người quan trọng và có thể làm thay cho cả đội ấy là người biết khích lệ tinh thần, biết thúc đẩy để đồng đội chơi tích cực hơn.  Khi những cầu thủ khác thiếu tự tin thì nhờ lời động viên, khích lệ họ trở nên mạnh mẽ và đầy tự tin, từ đó có thể chơi hay hơn, thậm chí họ có thể chơi hay hơn đến nỗi không thể hay hơn được.

 

Vậy việc trao ban "năng lực" nghĩa là gì?  Trước hết, nó diễn tả việc ban quyền năng hay sức mạnh cho ai đó.  Điều này không đúng với hoàn cảnh của các Tông Đồ.  Vì không phải khi Thánh Thần đến họ mới được ban quyền năng mà thật ra các ngài đã nhận từ Chúa Giêsu.

 

Trường hợp thứ hai, có nghĩa trao cho ai khả năng để họ có thể làm một việc nào đó.  Đây là cách nghĩ thông thường với từ "được ban năng lực" và diễn tả cách chính xác trường hợp các Tông Đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần.

 

Khi người ta được năng lực, họ trở nên có khả năng và có ý hướng để thay đổi tình huống.  Họ không chờ đợi ai khác để làm thay họ.  Họ chấp nhận và tự mình có thể gánh vác trọng trách ấỵ

 

Chúa Thánh Thần đã ban năng lực cho các Tông Đồ.  Ngài đã ngự xuống trên các ngài qua hình thức gió lửa.  Gió và lửa (sức nóng) là hình ảnh tượng trưng cho sức mạnh.  Gió có sức mạnh di chuyển, nhổ lên.  Lửa có sức mạnh tôi luyện và biến đổi.

 

Sức mạnh mà chúng tượng trưng ở đây chính là sức mạnh của Thiên Chúa.  Ở đây, chúng tượng trưng cho sự hiện diện và hành động của Thiên Chúa.  Chúa Thánh Thần đến để cung cấp cho các Tông đồ năng lượng, động lực, sự hăng say, sự cam đảm và tình yêu để các ngài có thể đảm nhận sứ vụ mà Chúa Giêsu đã ủy thác.  Chính Chúa Thánh Thần sẽ giúp các ông, nhưng Ngài không làm thay cho các ông.

 

Tuy nhiên, chúng ta không được nghĩ rằng sự biến đổi nơi cácTông đồ xảy đến trong chốc lát.  Nhưng nó là cả một quá trình tiệm tiến, là một tiến trình lớn lên.  Đôi khi sự lớn lên này có thể diễn ra cách chậm chạp và mang lại đau đớn.  Vì chúng ta không dễ để từ bỏ những lối sống cũ, những thói quen cũ, tập quán cũ và những thái độ cũ...

 

Người ta chỉ có thể thay đổi khi được một ai đó còn biết hy vọng vào họ; khi một ai đó đặt niềm tin nơi họ mà trao cho họ một nhiệm vụ nào đó; khi một ai đó còn quan tâm đến họ.  Nhưng vượt trên tất cả là họ chỉ thay đổi khi họ cảm thấy mình được yêu thương.  Khi đó, họ sẽ chui ra khỏi cái vỏ mặc cảm và nhận ra được có một sức mạnh đã tiểm ẩn từ lâu trong họ.  Chỉ có phép lạ của người biến đổi mới là phép lạ thật sự.

 

Chúng ta cũng cần một ai đó ban năng lực, đánh thức chúng ta để chúng ta có được động lực trong cuộc sống, để sống đáp lại một cách có trách nhiệm.  Điều này có nghĩa là chúng ta phải biến đổi những gì cần được biến đổi.  Nhưng đặc biệt, chúng ta cần nguồn năng lực để có thể làm chứng cho Chúa Giêsu, cho đức tin Công giáo của chúng ta.  Năng lực đã biến đổi các Tông đồ ngày xưa vẫn còn có giá trị đối với chúng ta hôm nay.  Chính Chúa Thánh Thần là động lực và sức mạnh cho tinh thần của chúng ta, sưởi ấm và biến đổi con tim ta trở nên tinh tuyền.

 

Viết theo Floy McCarthy

 

Thánh Nhân Hay Tội Nhân

 

THÁNH NHÂN HAY TỘI NHÂN?

 


Cuối cùng, chúng ta là thánh nhân hay tội nhân?  Tận sâu thẳm trong tâm hồn chúng ta là lòng tốt hay ích kỷ?  Hay chúng ta là người hai mặt, với hai nguyên lý bẩm sinh, một tốt một xấu, luôn luôn đối nghịch nhau?

 Chắc chắn, trong kinh nghiệm của mình, chúng ta cảm nhận có một xung đột.  Có một thánh nhân trong chúng ta muốn noi gương những gì cao cả của cuộc sống, và cũng có một cái tôi khác trong chúng ta lại muốn đi trên con đường xấu.  Tôi cảm mến lòng chân thành của Henri Nouwen khi cha nói lên xung đột này: “Tôi muốn là thánh nhân nhưng tôi không muốn bỏ lỡ bất kỳ cảm xúc nào của một tội nhân.”  Điều này do áp lực lưỡng cực bên trong chúng ta làm cho chúng ta khó thực hiện những lựa chọn luân lý rõ ràng.  Chúng ta muốn những điều đúng đắn, nhưng cũng muốn những điều sai trái.  Tất cả mọi lựa chọn đều là một sự từ bỏ nên tranh chấp giữa thánh nhân và tội nhân bên trong chúng ta tự nó biểu lộ qua sự bất lực không thể thực hiện những chọn lựa chắc chắn của chúng ta.

 Nhưng chúng ta không chỉ cảm thấy áp lực này khi đấu tranh để có một quyết định luân lý rõ ràng, chúng ta còn cảm nhận áp lực này hàng ngày trong các phản ứng liên tục với những tình thế tác động bất lợi cho chúng ta.  Nói đơn giản, chúng ta luôn bị giằng co giữa nhỏ nhen và quảng đại, giữa hằn thù và tha thứ, bất cứ lúc nào chúng ta thụ động chịu tác động từ những người khác.

 Ví dụ, tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm như sau: chúng ta đang làm việc trong một tâm trạng tốt, nghĩ về những điều yên bình và nhẫn nại, ấp ủ những cảm giác ấm áp, không muốn hại gì ai, rồi một cộng sự viên không có thiện ý đến, họ khinh thường hay xúc phạm chúng ta theo kiểu nào đó.  Trong tích tắc, toàn bộ thế giới nội tâm của chúng ta bị đảo ngược.  Một cánh cửa đóng sầm lại, và chúng ta bắt đầu cảm thấy lạnh lẽo hằn học, nghĩ về bất kỳ điều gì ngoại trừ những gì nồng ấm, chúng ta dường như trở thành một con người khác, từ quảng đại thành hằn học, từ thánh nhân thành kẻ mang những cảm xúc giết người để mua vui.

 Đâu mới là con người thật của chúng ta?  Thực sự chúng ta là gì, thánh nhân với tâm hồn quảng đại, hay tiểu nhân hằn học nhỏ nhen?  Dường như, chúng ta là cả hai, thánh nhân và tội nhân, vì lòng tốt và ích kỷ, cả hai đều luân lưu trong con người chúng ta.

 Có một điểm hay là không phải lúc nào chúng ta cũng phản ứng giống nhau.  Đôi khi bị khinh thường, xúc phạm, thậm chí bị công kích bất công, chúng ta vẫn phản ứng kiên nhẫn, thông hiểu, và tha thứ.  Tại sao?  Điều gì thay đổi cơ chế hóa học trong con người chúng ta?  Tại sao có lúc chúng ta đáp lại sự nhỏ nhen bằng lòng quảng đại, và lúc khác bằng hận thù?

 Xét cho cùng, chúng ta không biết được nguyên do, và đó là một phần trong mầu nhiệm tự do của con người.  Có những yếu tố nhất định đóng vai trò trong chuyện này: chẳng hạn nếu tâm chúng ta đang tốt thì khi gặp trường hợp chối bỏ, khinh thường, đối xử bất công, chúng ta dễ phản ứng một cách nhẫn nại và thông hiểu với lòng quảng đại hơn.  Ngược lại, nếu chúng ta đang mệt mỏi, áp lực, và cảm thấy mình không được yêu thương trân trọng, thì chúng ta dễ phản ứng tiêu cực, lấy hận thù đáp trả hận thù. 

 Nhưng, có lẽ, tận cùng, có một thực thể sâu sắc hơn nữa đang hoạt động trong tất cả các hành động của chúng ta, một thực thể vượt ngoài cảm xúc của chúng ta.  Cách chúng ta phản ứng với một tình huống, hiền hòa hay thù hằn, phần lớn dựa vào một điều gì đó khác hơn.  Các Tổ phụ ngày xưa có một khái niệm và đã định danh nó.  Họ  tin rằng mỗi chúng ta đều có hai phần hồn, một phần hồn rộng mở và một phần hồn nhỏ nhen, và cách chúng ta phản ứng với bất kỳ hoàn cảnh nào, phần lớn dựa trên phần hồn mà chúng ta suy nghĩ và hành động với nó vào thời điểm đó.  Như thế, nếu tôi bị xúc phạm hay bị tổn thương, với phần hồn rộng mở của tôi, thì tôi dễ đáp trả bằng nhẫn nại, thông hiểu và tha thứ.  Ngược lại, nếu tôi bị xúc phạm và tổn thương khi phần hồn nhỏ nhen của tôi tác động, thì tôi dễ đáp trả bằng nhỏ nhen, lạnh lùng, và thù hằn.  Và theo các Tổ phụ, cả hai phần hồn này hiện diện trong lòng chúng ta, chúng ta vừa quảng đại vừa nhỏ nhen, vừa thánh nhân vừa tội nhân.  Thách thức của chúng ta là dùng phần hồn quảng đại nhiều hơn phần hồn nhỏ nhen.

 Nhưng chúng ta phải cẩn thận, đừng hiểu điều này theo thuyết nhị nguyên.  Khi xác nhận có hai phần hồn, một phần quảng đại và phần kia nhỏ nhen, các Tổ phụ không dạy chúng ta một biến thể của thuyết nhị nguyên cũ, cụ thể cho rằng trong chúng ta có hai nguyên lý bẩm sinh, một tốt một xấu, luôn luôn tranh chấp để giành quyền điều khiển tâm hồn và linh hồn của chúng ta.  Dạng tranh chấp này thực sự không diễn ra trong chúng ta, mà chỉ là giữa hai nguyên lý tách biệt này với nhau.

 Thánh nhân và tội nhân bên trong chúng ta không phải là những thực thể tách biệt.  Đúng hơn, thánh nhân bên trong chúng ta, hay phần hồn quảng đại, không chỉ là cái tôi thực sự của chúng ta, mà đúng ra là cái tôi duy nhất của chúng ta.  Tội nhân trong chúng ta, hay phần hồn nhỏ nhen, không phải là một nhân thể riêng biệt hay một thế lực tinh thần riêng biệt cứ đấu tranh mãi với thánh nhân, mà đơn giản đó chỉ là phần bị tổn thương của thánh nhân, một phần của thánh nhân đã bị nguyền rủa và không bao giờ được chúc lành cho đúng.

 Và không nên để cái tôi bị tổn thương của chúng ta lại bị quỷ hóa và bị nguyền rủa thêm lần nữa.  Đúng hơn, nó cần được đối đãi tốt và được chúc lành - và rồi như thế nó sẽ thôi không nhỏ nhen và thù hằn khi gặp phải nghịch cảnh.

 

Rev. Ron Rolheiser, OMI

 

Lễ Chúa Thánh Thần

HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN

 


Có người bảo Chúa Thánh Thần là Ngôi Vị hay bị quên. Người ta thường cầu xin Ngài khi bắt đầu gặp gỡ hội họp, nhưng sau đó chẳng ai còn nhớ đến Ngài nữa.  Thật ra Chúa Thánh Thần ở gần ta hơn ta nghĩ rất nhiều, đến độ nếu không có Thánh Thần thì chẳng có Kitô giáo, cũng chẳng có kitô hữu.   Đời kitô hữu tràn ngập sự hiện diện của Thánh Thần, Đấng không có khuôn mặt hữu hình như Đức Giêsu, nhưng các hoạt động của Ngài thì có thể thấy được.


Dần dần Hội Thánh sơ khai nhận ra rằng Thánh Thần không chỉ là một quyền năng từ trên cao, mà còn là một Đấng, một Ngôi Vị thần linh như Cha và Con.  Ngài còn được gọi là Thần Khí, hay Đấng Bảo Trợ.  Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng Thánh Thần là Chúa, và là Đấng ban sự sống, đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Con.  Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống.  Nước là nguồn mạch đem lại sự sống, nên Đức Giêsu ví Thánh Thần với mạch nước vọt lên, mạch nước đem lại sự sống đời đời (Ga 4,14).


Ai tin vào Đức Giêsu sẽ được lãnh nhận Thần Khí như những dòng sông đầy tràn nước hằng sống (Ga 7,38-39).  Hơi thở là dấu hiệu của sự sống.  Đức Giêsu phục sinh đã trao ban Thánh Thần cho môn đệ
bằng cách thổi hơi thở của mình trên các ông (Ga 20,22).


Thánh Thần là hơi thở của Đấng đầy tràn sức sống mới.  Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống.  Ngài hiện diện và hoạt động trong mọi Bí tích.  Khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, ta được tái sinh trong nước và Thánh Thần (Ga 3,5), được rửa tội nhân danh Thánh Thần để thành thụ tạo mới.  Khi lãnh nhận Bí tích Thêm sức, ta nhận được ấn tín của Chúa Thánh Thần, và được sai đi làm chứng cho toàn thế giới (Cv 1,8).  Khi lãnh nhận Bí tích Hòa giải, ta được tha tội nhờ quyền năng của Thánh Thần (Ga 20,22-23).  Khi linh mục cử hành Bí tích Thánh Thể, trước khi đọc lời truyền phép trên bánh và rượu, linh mục cầu xin Chúa Cha sai Thánh Thần đến trên lễ vật để biến đổi chúng thành Mình và Máu Chúa Giêsu.


Lời Chúa mà ta đọc và nghe trong Thánh Lễ là Lời đã được linh hứng bởi Chúa Thánh Thần (MK 12).  Lời ấy sẽ được rao giảng nhờ Thánh Thần soi sáng (MK 9).  Đức Giêsu nhận mình là Đấng ban sự sống (Ga 5,21; 17,2).  Khi về với Cha, Ngài ban cho ta Thánh Thần.  Thánh Thần là Đấng ban sự sống,
Đấng sẽ ở với, ở bên và ở trong chúng ta mãi mãi (Ga 14,16-17).  Thân xác chúng ta đáng quý vì là Đền Thờ của Thánh Thần (1 Cr 6,19).  Thánh Thần là Thầy giúp ta nhớ lại giáo huấn của Đức Giêsu, và dẫn ta tới sự thật toàn vẹn và trọn vẹn (Ga 14,26; 16,13).


Thánh Thần là vị Thầy dạy ta cầu nguyện, dạy ta gọi Thiên Chúa là Abba, Cha ơi! (Rm 8,15; Gl 4,4).  Thánh Thần vừa ban ơn riêng cho từng người (1 Cr 12,4-11), vừa hiệp nhất mọi người thành một thân thể (1 Cr 12,13).


Không thể nào hình dung một Hội Thánh mà lại không có Thánh Thần.  Thánh Thần là “linh hồn” của Hội Thánh.  Kinh Sáng Danh cổ xưa nhất là: “Sáng danh Đức Chúa Cha, nhờ Đức Chúa Con, và
trong Chúa Thánh Thần.”


Kitô hữu là người sống trong Thánh Thần của Đức Giêsu.
  Dù chúng ta đã lãnh bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức, nhưng chúng ta vẫn phải luôn cầu xin Cha trên trời ban cho ta Thánh Thần mỗi ngày (Lc 11,13).  Càng để cho Thánh Thần tự do hoạt động trong cuộc sống, cây đời của chúng ta càng sinh hoa trái tốt tươi (Gl 5,22-23).

 

***************************

Lạy Cha, xin ban cho chúng con Thánh Thần.

Vì không có Thánh Thần,
Cha sẽ là Đấng nghìn trùng xa cách,
Đức Kitô trở thành nhân vật của quá khứ,
Sách Tin Mừng là mớ chữ vô hồn,
Hội Thánh chẳng khác nào một tổ chức trần thế.

Vì không có Thánh Thần của Cha,
quyền uy trở thành sức mạnh thống trị,
truyền giáo trở thành tuyên truyền,
việc phụng tự trở thành một thứ lễ bái,
cách hành xử của Kitô hữu thành thứ đạo đức của nô lệ.

Nhưng nếu có Thánh Thần,
vũ trụ này được nâng lên,
những quặn đau để sinh ra Nước Cha mang ý nghĩa,
Đức Kitô phục sinh thật sự hiện diện,
Tin Mừng thành sức sống vô bờ,
Hội Thánh có nghĩa là hiệp thông.

Nếu có Thánh Thần của Cha,
quyền uy của Hội Thánh là khí cụ phục vụ,
truyền giáo trở thành một lễ Hiện Xuống mới,
phụng vụ là một tưởng niệm và là một thực tại,
các hành động của con người mang tính thần linh.

Lạy Cha, xin ban Thánh Thần cho chúng con.

 

(dựa theo Đức Thượng phụ Athenagoras)

 

 

Lễ Chúa Thăng Thiên

 

ÁI MỘ NHỮNG SỰ TRÊN TRỜI

 



Thủ lãnh của một bộ tộc nằm hấp hối trên giường.  Ông cho gọi ba người thân cận đến và nói:  Ta phải chọn một người kế tục.  Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi thiêng liêng của chúng ta và mang về đây cho bộ tộc một món quà quý giá nhất.

 Người thứ nhất mang về một thỏi vàng lớn.  Người thứ hai mang về một viên ngọc quý.  Người thứ ba trở về tay không.

 Ngạc nhiên, vị tù trưởng hỏi: món quà quý giá của ngươi đâu?

 Anh điềm tĩnh trả lời: khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể có một cuộc sống sung túc tốt đẹp. 

Thủ lãnh nói: Ngươi sẽ nối nghiệp ta vì ngươi đã mang về món quà quý giá nhất là một viễn tượng tương lai tốt đẹp.

 Chúa Giêsu về trời mở ra một viễn tượng tương lai tốt đẹp là hạnh phúc thiên đàng.  Người đi trước mở đường và dẫn chúng ta lên theo Người.

 Tin Mừng thuật lại hai sự kiện song hành: Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng.  Sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh Marcô ghi lại rất vắn tắt: Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.  Tin mừng Matthêu nói đến lệnh truyền: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần.  Còn theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây Dầu.  Thực ra sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Người bước vào cõi vinh quang của Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha.  Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và củng cố đức tin của các Tông Đồ.  Giáo hội đã được thiết lập nay được củng cố để được sai đi.  Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa.  Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ.  Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Chúa Giêsu ban những giáo huấn cuối cùng, trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới.

 Chúa Giêsu lên trời. Những chữ lên trời bị chi phối bơi cách suy nghĩ có giới hạn của chúng ta. Theo cách suy nghĩ đó,các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian. Thực ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao. Lên trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì trời hay thiên đàng là một trạng thái hơn là một nơi chốn. Chúng ta đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Điều cốt yếu mà Thánh kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Kitô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vào một thế giới mới, trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chất đã biến đổi,đã thấm nhuần tinh thần.

 Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình.  Với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Chúa Giêsu đã được thần khí hóa và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha.  Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn.  Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh một số người thôi.  Từ nay, với quyền năng Thánh Thần, Người sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.  Chúa Giêsu lên trời.  Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác.  Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác.  Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.  Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau.  Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt.  Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối.  Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh.  Như thế trời là niềm hy vọng của con người.  Con người không còn bị trói chặt vào trần gian.  Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ.  Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi.  Trời cho con người một lối thoát.  Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc.  Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.  Trời nâng cao địa vị con người.  Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với loài vật.  Loài vật sinh ra để tàn lụi.  Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa.  Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.

 Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian.  Trời không phải là cõi mơ mộng viễn vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.  Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.  Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho Nước Chúa.  Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn.  Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.  Chính Chúa Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời.  Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi.  Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đó.  Đi đến đâu là làm cho hạt yêu thương nảy mầm lên màu xanh sự sống đến đó.

 Người môn đệ của Chúa sống giữa trần gian, yêu mến trần gian, xây dựng trần gian.  Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.  Tuy nhiên ta làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời.  Yêu mến trần gian vì nước trời.  Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời.  Sống giữa thế gian, chúng ta “ái mộ những sự trên trời” như lời kinh hạt: “Thứ năm thì ngắm, Ðức Chúa Giêsu lên trời.  Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời.  Nhưng vẻ đẹp trên trời là vẻ đẹp của tâm hồn, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, vẻ đẹp nghèo khó Phúc Âm, khiêm nhường, đơn sơ, thanh tịnh.  Đây là vẻ đẹp và sự quyến rũ của nhân đức, một vẻ đẹp hoàn toàn khác với những vẻ đẹp và sự quyến rũ thuộc trái đất.  Nhiều người đã bỏ ra hằng trăm, hàng ngàn, hàng vạn Mỹ kim để làm đẹp, để khoa trương sự giàu có và để được người khác ca tụng.  Nhiều người không sợ trải qua những cuộc giải phẫu nguy hiểm, đau đớn cốt sao để thấy mình đẹp hơn, để thấy mình hơn người khác.  Nhiều người đã sẵn sàng chấp nhận những thách đố lớn lao để chạy đua vào những chiếc ghế quyền lực.  Nhưng ít ai bỏ ra một giờ, một ngày, một tuần, một tháng, hoặc một năm để lo tu sửa và chỉnh trang lại vẻ đẹp của tâm hồn.

 

Trên thực tế, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, đức nghèo khó, đức đơn sơ, và đức trong sạch là những đòi hỏi rất cần thiết để đem lại hạnh phúc cho mỗi người, mỗi cộng đoàn, mỗi dân nước.  Ðó là những gì cụ thể có thể giúp con người chiếm hữu được vĩnh hằng.  Rất tiếc, đó cũng là những gì mà nhiều người từ khước, bởi vì chúng không phù hợp với nhãn quan và suy tư của con người.

 

Giáo Hội đã thôi thúc và khuyến khích mỗi Kitô hữu hãy tìm kiếm và yêu mến những sự trên trời.  Cầu xin cho được ơn ái mộ là cầu xin Thánh Linh khai mở tâm hồn và trí tuệ để chúng ta có thể nhìn, và có thể hiểu được vẻ cao quí của những giá trị tinh thần ấy.  Nhận thức về thế giới tâm linh là một nhận thức ngoài tầm hiểu biết của trí tuệ tự nhiên con người.  Những gì thuộc về thần linh là thần linh.  Con người cần được soi dọi và khai mở bởi sức mạnh huyền nhiệm của Thánh Thần.  Chỉ khi nào trí óc ta, trái tim ta được Ngài khai mở, lúc ấy ta mới nhận ra, mới hiểu thấu thế nào là sự cao xa, dài rộng của vẻ đẹp tinh thần, của những giá trị đạo đức.

 Lạy Chúa Giêsu,

Chúa về trời, không chỉ để dọn chỗ mà còn là mở ra một viễn tượng hạnh phúc của trời cao.

“Xin cho chúng con ái mộ những sự trên trời,” để chúng con không bị chôn bám vào thế gian chóng qua và phù du này.  Và để chúng con biết tìm kiếm những giá trị cao quí của tinh thần, và để chúng con yêu mến và sống với cuộc sống ấy.  Vì đó là những gì mà chúng con có thể tìm kiếm, mua sắm và đem vào được nơi vĩnh hằng.  Nơi mà chúng con sẽ gặp được Chúa là nguồn mạch sự sống, hoan lạc, và hạnh phúc viên mãn của chúng con.  Amen.

 

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Già Đi Như Một Tu Viện Tự Nhiên

 

GIÀ ĐI NHƯ MỘT TU VIỆN TỰ NHIÊN

 


Tu viện là gì?  Tu viện hoạt động như thế nào?  Thánh Biển Đức (480-547 TCN) được xem là nhà sáng lập đời sống tu viện Tây phương, ngài có lời khuyên như luật căn bản cho các tu sĩ của ngài: Hãy ở trong phòng của mình, nó sẽ dạy anh em mọi điều anh em cần biết.  Hiểu cho đúng, đây là một ẩn dụ phong phú, chứ không phải lời khuyên theo nghĩa đen.  Khi nói đến một tu sĩ ở trong phòng và để việc đó dạy mình những gì mình cần biết, ngài không nói đến căn phòng tu sĩ trong tu viện.  Ngài đang nói đến tình trạng sống hiện tại của một tu sĩ hay của bất kỳ ai.


Đôi khi, điều này được linh đạo Kitô giáo gọi là trung thành với bổn phận hiện tại.  Ý nghĩa là nếu chúng ta trung thành với tình yêu và có thiện tâm với tình trạng cuộc sống hiện tại của mình, thì cuộc sống tự nó sẽ làm cho chúng ta trưởng thành và nhân đức.  Ví dụ, một người mẹ hy sinh, tận tụy hết lòng nuôi con, bà sẽ trưởng thành và vị tha qua quá trình bà.  Nhà của bà sẽ là căn phòng tu sĩ của bà và nói theo ẩn dụ, bà sẽ là tu viện trưởng của tu viện mình (cùng vài tu sĩ rất nhỏ tuổi) và việc ở trong tu viện này, là mái nhà của bà, nó sẽ dạy cho bà mọi điều bà cần biết.  Bà sẽ nuôi dạy con cái, nhưng con cái cũng sẽ nuôi dạy bà.  Tình mẫu tử sẽ dạy bà những gì bà cần biết và sẽ làm cho bà thành một vị trưởng bối khôn ngoan, một Khôn ngoan kinh điển và gương mẫu.

 

Quá trình già đi chính là một tu viện tự nhiên.  Nếu sống đủ lâu, cuối cùng quá trình già đi sẽ biến tất cả mọi người thành tu sĩ.  Các tu sĩ có bốn lời khấn: khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục và kiên vững.  Quá trình già đi (dường như tàn nhẫn) đưa chúng ta đến với việc bị loại ra rìa, phải phụ thuộc vào người khác, mất đi đời sống tình dục năng nổ, và đi vào tình trạng sống không lối thoát, có thể nói là áp đặt bốn lời khấn đó lên chúng ta.  Nhưng như lời khuyên của Thánh Biển Đức, điều này có thể dạy cho chúng ta mọi điều chúng ta cần biết, và nó có sức mạnh độc nhất vô nhị làm chúng ta trưởng thành một cách rất sâu sắc.  Các tu sĩ có những bí quyết đáng để chúng ta học hỏi.  Quá trình già đi cũng vậy.

 

Đây có thể đem lại hiểu biết đặc biệt về cách chúng ta có thể biến những ngày tháng cuối đời và cái chết của chúng ta thành một món quà tận căn cho người khác.  Trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, tử đạo là cách lý tưởng để một tín hữu kết thúc hành trình dương thế.  Nó được xem là cách triệt để để noi gương Chúa Kitô và biến cái chết của mình thành một ơn.  Dĩ nhiên, sau khi Kitô giáo thành quốc giáo và các đại đế không còn giết hại Kitô hữu nữa, thì chuyện này cần được suy nghĩ lại.  Từ đó đã có nhiều nỗ lực để tử đạo có thể hiểu theo nghĩa bóng.  Có một cách phổ biến là sau khi nuôi dạy con cái trưởng thành và đến tuổi về hưu, hai vợ chồng sẽ rời nhau và mỗi người đến một tu viện để sống phần đời còn lại như tu sĩ.

 

Các nhà thần nghiệm Kitô giáo kinh điển nói, trong giai đoạn cuối đời, chúng ta nên đi vào điều mà họ gọi là đêm tối tâm hồn, cụ thể là chúng ta chủ động đưa ra quyết định triệt để dựa trên đức tin, bước vào một tình trạng sống mà chúng ta không còn chăm sóc cho bản thân mình, mà phải tin tưởng, với một đức tin thuần túy nhất, rằng Thiên Chúa sẽ chu cấp cho chúng ta.  Điều này cũng tương tự với linh đạo của Ấn giáo, cho rằng trong giai đoạn cuối cùng, trưởng thành trọn vẹn của cuộc đời, chúng ta nên trở thành môn đệ sannyasin, hành khất già thánh thiện.

 

Tôi nghĩ rằng, hầu hết chúng ta sẽ không bao giờ chủ động cắt đứt mọi an toàn cũ của mình để đặt mình vào tình trạng mà chúng ta bất lực trong việc chu toàn và chăm sóc bản thân.  Nhưng đây là lúc thể hiện vị trí của mình một cách tự nhiên.  Quá trình già đi sẽ làm điều đó cho chúng ta.  Nó sẽ biến chúng ta thành môn đệ sannyasin và đưa chúng ta vào đêm tối tâm hồn.

 

Như thế nào?  Khi già đi, sức khỏe suy yếu và thấy bị đẩy ra rìa hơn, không còn một vị trí quan trọng trong xã hội, chúng ta sẽ dần mất đi năng lực tự chăm sóc cho bản thân.  Cuối cùng, nếu sống đủ lâu, hầu hết chúng ta sẽ chuyển sang sống trong cơ sở hỗ trợ sinh hoạt, và nó là một tu viện tự nhiên.

 

Đúng là một ẩn dụ quá thích hợp!  Cơ sở hỗ trợ sinh hoạt như một tu viện tự nhiên.  Ẩn dụ này cũng thích hợp cho ý nghĩa của việc (bị cưỡng bách) bước vào đêm tối tâm hồn và việc làm môn đệ sannyasin, hành khất già thánh thiện.  Thực chất nó mang ý nghĩa: khi ai đó sống trong cơ sở hỗ trợ sinh hoạt, thì dù người đó là triệu phú hay người bần cùng, thì luật cũng như nhau.  Vì chúng ta không thể chăm sóc cho bản thân (và thật sự là không cần phải làm thế), thì chúng ta sống một cuộc sống tu viện vâng phục và phụ thuộc.

 

Khi cần hỗ trợ sinh hoạt, là chúng ta sống theo tiếng chuông tu viện và chết như một hành khất già thánh thiện.

 

Rev. Ron Rolheiser, OMI

 

Chiều Kích Hoàn Vũ Của Ơn Cứu Độ

 

CHIỀU KÍCH HOÀN VŨ CỦA ƠN CỨU ĐỘ

 


Cuộc thị kiến của ông Phê-rô đã đưa ông và các tông đồ tiến tới một quyết định quan trọng.  Đó là mọi dân đều có thể đón nhận ơn Cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện trong Đức Giê-su Ki-tô.  Trước đó, ông Phê-rô đã thấy hình ảnh một chiếc khăn lớn từ trời.  Trong chiếc khăn ấy có đủ mọi loài sinh vật, kể cả những sinh vật mà Do Thái giáo cấm ăn.  Ông đã ngỡ ngàng trước thị kiến này, và sau đó ông đã hiểu thông điệp mà Chúa Thánh Thần muốn nhắn gửi: Chúa Giê-su đem ơn Cứu độ đến cho muôn dân.

 

Trước đó, ông Phê-rô cũng như các tông đồ khác đều hiểu ơn Cứu độ chỉ dành cho người Do Thái.  Vì vậy, sau khi Chúa Giê-su về trời, các ông vẫn chuyên cần đến Đền thờ để cầu nguyện, đồng thời gặp gỡ những người Do Thái để nói với họ về sự Phục Sinh của Chúa Giê-su, nhằm minh chứng cho họ thấy: Đức Giê-su là Đấng muôn dân mong đợi và nhân loại không còn phải chờ đợi một đấng cứu độ nào khác.  Khởi đi từ thị kiến nói trên, các tông đồ đã được khai trí và hoàn toàn thay đổi quan niệm chật hẹp về Ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện qua cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su thành Na-da-rét.

 

Sau này, sự chống đối của người Do Thái cũng dẫn ông Phao-lô đi đến một quyết định căn bản.  Ông tuyên bố: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố Lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ Lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại” (x. Cv 13,44-52).

 

Thiên Chúa không thiên vị người nào.  Ông Phê-rô khẳng định như thế.  Chúa Thánh Thần như dòng suối mát, phong phú tràn trề.  Bất cứ ai thành tâm tin vào Chúa Giê-su đều được Chúa Thánh Thần ban ơn phù trợ.  Bài đọc I đã minh chứng: Trong lúc ông Phê-rô giảng, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống nơi tất cả những người đang nghe Lời Chúa.  Như thế, không ai có quyền ngăn cản hoạt động của Chúa Thánh Thần.  Ơn Chúa Thánh Thần cũng không còn là độc quyền của một số cá nhân nhưng được ban cho mọi dân mọi nước.  Đây là một nét mới mẻ trong Ki-tô giáo mà ngay từ ban đầu các tông đồ đã hiểu.

 

Chúng ta chuẩn bị mừng lễ Chúa Giê-su lên trời.  Phụng vụ hôm nay dường như muốn truyền lại cho chúng ta lời di chúc của Chúa Giê-su, hay còn gọi là di ngôn của Người.  Trong khung cảnh sau bữa Tiệc ly của ngày thứ Năm trước lễ Vượt Qua, Chúa Giê-su đã trải lòng với các môn đệ bằng những lời tâm huyết tự trái tim.  Người biết trước các ông sẽ phải đối diện với trăm ngàn thử thách.  Người uý lạo các ông và hứa sẽ ban Đấng Phù Trợ là Chúa Thánh Thần.  Giữa những khó khăn thử thách chất chồng ấy, các ông có thể tìm thấy sức mạnh nơi tình yêu thương.  Lời dặn: “Hãy yêu thương nhau” được lặp đi lặp lại như điệp khúc của bản nhạc diễn tả tâm tình thầy trò vào giờ phút linh thiêng nhất.  Chúa nói với họ: Người sẽ không còn hiện diện hữu hình như từ trước tới nay nữa nhưng Người sẽ hiện diện giữa họ và trong lòng họ, nếu họ yêu mến Người và yêu mến nhau.  Chính tình yêu mến dành cho Chúa Giê-su và cho anh em sẽ làm nên sức mạnh của cộng đoàn tín hữu và sẽ là điều kiện để những hoạt động của các ông sinh hoa kết trái.

 

Lời mời gọi yêu thương được gửi đến các Ki-tô hữu từ hai ngàn năm nay.  Lời ấy còn phải được lặp đi lặp lại mãi, bao lâu chúng ta còn hiện hữu trên trần gian.  Bởi lẽ, đây là giới răn cốt lõi quan trọng và là điều kiện căn bản để trở thành môn đệ của Chúa Giê-su.  Hơn nữa, bản tính con người do yếu đuối và hữu hạn, luôn có khuynh hướng đi ngược lại giới răn yêu thương.  Tiếc thay có những lúc đức yêu thương bị lãng quên nơi các cộng đoàn và nơi cá nhân những Ki-tô hữu.  Như thế, vô tình hay hữu ý, họ làm lu mờ hình ảnh Đức Giê-su nơi đời sống đức tin, thậm chí biến Người thành một kẻ xa lạ.  Chúa đã khẳng định: Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).

 

Yêu thương là cốt lõi giáo huấn của Chúa Giê-su.  Tông đồ Gio-an đã thấm nhuần lời dạy yêu thương của Chúa, nên sau đó, ông nhấn mạnh đến tình yêu thương trong các thư của mình.  Bài đọc II của Phụng vụ hôm nay là một bằng chứng cho điều đó.  Thánh Gio-an an còn tiến xa hơn trong giáo huấn này khi ông khẳng định: “Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa.  Như thế, nhờ đức yêu thương mà chúng ta trở nên con Thiên Chúa.  Đương nhiên, đó là đức yêu thương theo gương mẫu Đức Giê-su để trở nên đồng hình đồng dạng với Người và trở thành nghĩa tử của Chúa Cha.

 

Hãy cảm nhận niềm vui và vinh dự của người Ki-tô hữu.  Vẫn còn đó những thử thách gian nan nhưng người Ki-tô hữu, nhờ ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần, sẽ cảm nhận được niềm vui và sẽ trở nên chứng nhân của niềm vui cho thế giới hôm nay.

 

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên