Lễ Vượt Qua là lễ quan trọng nhất của người Do Thái. Đó là việc
kỷ niệm hằng năm về sự giải thoát dân Israel khỏi ách nô lệ người Ai Cập. Lễ
này cử hành vào ngày 13 tháng Nisan (khoảng tháng Tư theo công lịch), nhưng vì
ngày của người Do Thái bắt đầu vào lúc mặt trời lặn nên lễ thực sự bắt đầu từ
lúc mặt trời lặn ngày 14 tháng Nisan. Đối với Chúa Giêsu và các môn đệ, chắc
chắn nhiều người khác cũng vậy, bữa ăn vượt qua được ăn vào chiều thứ Năm của
năm đó.
Chuẩn Bị
Các môn đệ
biết Thầy Giêsu muốn ăn Lễ Vượt Qua tại Giêrusalem, nhưng chưa chắc Thầy có
muốn ăn ở đó hay không. Họ đến gần Ngài và hỏi: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho
Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?” Chúa Giêsu sai Phêrô và Gioan đi chuẩn bị những gì
cần thiết và dặn dò: “Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón
gặp các anh. Cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với
chủ nhà: Thầy nhắn: “Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của
tôi ở đâu?” Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được
chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta.” Hai môn đệ ra
đi. Vào đến thành, các ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc
Vượt Qua (Mc 14:12–16).
Trước giờ đã
định, Phêrô và Gioan đã chuẩn bị xong cho bữa ăn mừng Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu
và 10 môn đệ khác đến phòng tiệc. Lúc đó khoảng 6 giờ chiều. Tất cả chờ tiếng
kèn đồng được các tư tế thổi tại Đền Thờ báo thời điểm mặt trời lặn để có thể
bắt đầu dùng bữa.
Dạ Tiệc Bắt
Đầu
Khi các môn đệ
ngồi vào bàn ăn, cuộc tranh luận xảy ra về chuyện ưu tiên cao – thấp, trước –
sau. Chúa Giêsu quở trách họ và dạy bài học về đức khiêm nhường. Ngài cởi áo,
thắt lưng, đổ nước vào chậu, và rửa chân cho từng người. Phêrô không chịu cho
Thầy rửa chân mình, Chúa Giêsu nói với ẩn ý: “Anh em đã sạch, nhưng không phải
tất cả đâu!” (Ga 13:10). Thánh Gioan cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu ám chỉ
môn đệ Giuđa. Có thể Ngài nói lời đó khi di chuyển từ chỗ Phêrô tới chỗ Giuđa,
và có ý cho Giuđa hiểu rằng Ngài đã biết rõ ý định đen tối của ông.
Khi mọi người
yên vị, Chúa Giêsu nói thêm về bài học Ngài vừa dạy: “Anh em đã biết những điều
đó, nếu anh em thực hành thì thật phúc cho anh em!” Tiếp tục ám chỉ Giuđa, Chúa
Giêsu nói: “Thầy không nói về tất cả anh em đâu.” Có lẽ các môn đệ hiểu Chúa
Giêsu đã sai lầm khi chọn một kẻ phản bội làm môn đệ, nên Ngài nói thêm: “Chính
Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau
đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con” (Ga 13:17-18). Câu
này được Chúa Giêsu trích dẫn từ Cựu Ước (Tv 41:10), trực tiếp nói tới Đa-vít,
và gián tiếp nói tới Đức Kitô, vì Đa-vít được mô tả trước về Đấng Mêsia – Đức
Giêsu Kitô. Chúa Giêsu cho các môn đệ biết trước để rồi họ sẽ nhận ra rằng lời
tiên tri này nói về Ngài.
Tâm Thần Xao
Xuyến
Thánh Gioan
cho biết rằng Chúa Giêsu “cảm thấy tâm thần xao xuyến” (Ga 13:21). Rõ ràng Chúa
Giêsu phiền lòng vì sự hiện diện của Giuđa. Ngài đã bật khóc vì thương
Giêrusalem và nay lại buồn vì sự hiện diện của một con người được chọn mà chống
lại Ngài, mê muội và cố chấp đi theo đường xấu. Một lần nữa, Chúa Giêsu lại nói
về sự phản trắc, lần này Ngài nói thẳng thắn hơn: “Thầy bảo thật anh em, có
người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy” (Mc
14:18). Chúa Giêsu cho biết lý do khiến Ngài xao xuyến. Ngài bị phản bội bởi
một người đồng bàn với Ngài, một người thân thiện thuộc Nhóm Mười Hai.
Cuối cùng, ý
nghĩa trong lời nói của Chúa Giêsu cũng thấm sâu vào trí óc ngờ vực của các môn
đệ. Họ nhận ra rằng Ngài không dùng hình tượng trong lời nói mà Ngài xao xuyến.
Các môn đệ bắt đầu cảm thấy buồn và xao xuyến. Họ nhìn nhau và thắc mắc, nhưng
ánh mắt của họ buồn bã hơn là nghi ngờ. Ai cũng sợ chính mình là người mà Thầy
ám chỉ.
Chúa Giêsu đã
xác định khi Giuđa hỏi có phải là mình hay không. Chúa Giêsu vẫn tránh nói rõ
kẻ phản bội và trả lời chung: “Chính là một trong Nhóm Mười Hai đây, mà là
người chấm chung một đĩa với Thầy” (Mc 14:20). Có thể cách diễn tả của Ngài chỉ
là cách nói khác một chút: “Người cùng ăn với Thầy.” Rồi Ngài nói tiếp: “Đã hẳn,
Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con
Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!” (Mc 14:21). Chúa Giêsu chịu khổ nạn
không phải là Ngài bị lừa hoặc bị ép buộc, mà Ngài chấp nhận hoàn toàn tự
nguyện.
Đó là những
lời đáng sợ nhất mà Chúa Giêsu đã nói khi còn trên thế gian. Sự đe dọa đó không
thể tránh: đó là lời đe dọa trực tiếp về án phạt đời đời đối với Giuđa. Hẳn là
tốt hơn cho Giuđa được sinh ra nếu thời gian không đến khi ông thị kiến hạnh
phúc Nước Trời, nhưng điều có thể này có vẻ bị loại trừ qua lời nói của Chúa
Giêsu.
Có thể là lời
nói của Chúa Giêsu đã làm gián đoạn nghi vấn của các môn đệ: “Thưa Thầy, chẳng
lẽ con sao?” (Mt 26:25a). Giuđa biết rất rõ rằng Chúa Giêsu ám chỉ ông, nhưng
ông lảng tránh, nên cũng hỏi Thầy xem sao, và Chúa Giêsu liền xác định: “Chính
anh nói đó!” (Mt 26:25b). Đối với những người khác hỏi, Chúa Giêsu không nói
gì. Nhưng với Giuđa thì Chúa Giêsu xác định ngay. Rõ ràng là Giuđa giả hình và
có ý định đen tối.
Giuđa Bỏ Trốn
Phêrô ra dấu
với Gioan và hỏi nhỏ: “Hỏi xem Thầy muốn nói về ai?” Gioan ghé sát vào Chúa
Giêsu và thì thầm: “Thưa Thầy, ai vậy?” Chúa Giêsu trả lời: “Thầy chấm bánh đưa
cho ai thì chính là kẻ ấy” (Ga 13:26). Rồi Ngài chấm một miếng bánh, trao cho
Giuđa, con ông Simôn Ítcariốt. Gioan thấy Giuđa nhận miếng bánh thì cảm thấy ái
ngại. Phúc Âm không thấy nói Gioan có cho Phêrô biết kẻ phản bội hay không, rất
có thể Phêrô không biết.
Lúc này, Thánh
sử Gioan lại đề cập sự ảnh hưởng của Satan: “Y vừa ăn xong miếng bánh, Satan
liền nhập vào y” (Ga 13:27a). Khi xác định Giuđa là kẻ phản bội, có vẻ như Chúa
Giêsu loại ông khỏi tông đồ đoàn. Giuđa càng bị Thiên Chúa loại trừ thì Satan
càng thoải mái chiếm hữu ông. Càng khước từ ơn Chúa thì càng yếu đuối, không đủ
sức chống lại ma quỷ.
Hy vọng cuối
cùng đối với Giuđa trở nên mong manh. Chúa Giêsu không còn hy vọng gì ở Giuđa
nữa. Lực bất tòng tâm, Ngài nói với Giuđa: “Anh làm gì thì làm mau đi!” (Ga
13:27b). Chúa Giêsu muốn không bận tâm tới sự có mặt của kẻ phản bội để có thể
dành chút thời gian còn lại cho các môn đệ trung tín. Các môn đệ khác nghe Chúa
Giêsu nói và tưởng là Ngài bảo Giuđa mua đồ chuẩn bị lễ và bố thí cho người
nghèo.
Có thể tưởng
tượng rằng Thánh Gioan như chết lặng khi Giuđa bỏ ra ngoài sau khi nhận miếng
bánh từ tay Chúa Giêsu. Khi Giuđa đi ra cửa, Gioan thấy bóng tối bao phủ Giuđa
như chiếc áo khoác. Bóng tối bên ngoài tương phản với ánh sáng trong phòng.
Gioan nhận thấy sự tương phản đó nên đã viết: “Lúc đó, trời đã tối” (Ga 13:30).
Câu nói ngắn
gọn của Thánh Gioan tạo ấn tượng mạnh mẽ. Có vẻ như Thánh Gioan nhìn vào chính
bóng tối khác với một hiện tượng vật lý; bóng tối mà Giuđa đi vào là một biểu
tượng. Đó là giờ của bóng tối, “người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì
các việc họ làm đều xấu xa” (Ga 3:19); đó là thời của quyền lực tối tăm (Lc
22:53), quyền lực này đã chiếm hữu linh hồn Giuđa; chính vì bóng tối này mà ánh
sáng chiếu soi, và “bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1:5).
Phêrô Vấp Ngã
Sau Bữa Tiệc
Ly, Chúa Giêsu tha thiết nói với 11 môn đệ để cảnh báo họ về những gì sắp xảy
ra. Ngài nói: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép: Ta
sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác” (Mt 26:31). Ngài không ngoại
trừ ai: Tất cả sẽ vấp ngã vì Ngài.
Chúa Giêsu
trích dẫn lời Kinh Thánh trong sách Dacaria nói về Ngài: “Hãy đánh mục tử, đàn
chiên sẽ tan tác” (Dcr 13:7). Các sự kiện trong đêm hôm đó và ngày hôm sau thực
sự ứng nghiệm mọi lời Chúa Giêsu đã nói về cuộc khổ nạn của Ngài. Mặc dù các
môn đệ đã được cảnh báo trước, chuẩn bị trước, họ vẫn không dám đối diện với sự
thật, và thực tế tang thương của Đức Kitô đã khiến họ quá bất ngờ.
Một lần nữa,
Phêrô lại làm ngơ những gì Thầy Giêsu đã nói và chuyển sang chủ đề khác mà ông
đang nghĩ. Ông hoàn toàn trái ngược với Thầy Giêsu. Chúa Giêsu nói: “Anh sẽ vấp
ngã, anh sẽ chối Thầy.” Nhưng Phêrô nói mạnh: “Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa thì
con cũng nhất định là không” (Mc 14:29). Ông rất tự tin, hoàn toàn xác nhận
rằng tất cả các đồng môn vấp ngã, ngoại trừ ông – nghĩa là ông sẽ không bao giờ
vấp ngã.
Lời xác quyết
của Phêrô vô hiệu. Câu trả lời của Thầy Giêsu quả quyết và xác định. Lời nói
trước rất rõ ràng và mạnh mẽ: “Thầy bảo thật anh: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa
kịp gáy hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần” (Mc 14:30). Các sự
kiện đêm hôm đó chứng tỏ lời nói tiên tri của Chúa Giêsu về Phêrô và các môn đệ
đều ứng nghiệm.
Đêm Định Mệnh
Trước khi rời
Phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu và các môn đệ đã hát Thánh Vịnh – gọi là Hallel. Đây
là một phần trong nghi thức Lễ Vượt Qua. Sau đó mọi người đi tới Vườn Dầu ở
phía Đông. Có lẽ lúc đó trong khoảng 10 giờ tới 11 giờ đêm. Trăng rằm dịp Lễ
Vượt Qua đã lên cao trên Núi Mô-áp ở phía Đông và tỏa ánh sáng nhạt trên thành
phố tĩnh lặng. Nếu truyền thống này đúng, nhóm lính tráng hẳn là không phải đi
xa để tới dinh Cai-pha, nơi họ chuẩn bị bắt Chúa Giêsu ngay đêm hôm đó.
Chúa Giêsu và
các môn đệ rời thành phố để tới thung lũng và ngang qua Fountain Gate. Khi ra
ngoài thành phố, họ đi về phía Bắc trên con đường dọc theo con suối Cedron,
suối này khô cạn vào thời điểm đó. Lúc này, nhìn suối Cedron sâu và tối, phân
cách thành phố ở phía Tây với Núi Ô-liu ở phía Đông. Họ đi dọc theo con đường ở
dưới khe núi tối tăm, nhưng bên trên có ánh trăng chiếu sáng trên thành phố ở
hai bên nên thấy ánh sáng mở trên các cây ô-liu ở triền núi. Ngay đối diện Đền
Thờ, không xa chiếc cầu hiện nay, hướng về phía Đông và tới Vườn Dầu trên sườn
đồi. Hành trình từ Phòng Tiệc Ly phải đi qua vùng địa thế khó khăn và có thể
phải mất khoảng 30 phút.
Lm Ralph
Gorman
Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)
Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)