“Nói dối chưa bao giờ
dễ đến như thế ở Việt Nam. Vì người ta đồng lòng nói dối, rủ nhau nói dối. Một
cá nhân nói dối thì lương tâm còn nhúc nhích nhưng cả tập thể nói dối thì lại
là sự đoàn kết nhất trí cao”.
“Một
nửa cái bánh mì vẫn là bánh mì. Nhưng một nửa sự thật là sự dối trá”
Đến
nay thì cô bé ấy đã là một sĩ quan cảnh sát của CHLB Đức, được đào tạo chính
quy tại chính mảnh đất này, nơi em đã sinh ra và lớn lên.
Mình không bao giờ quên
những ngày này cách đây hơn chục năm, khi N. được mẹ cho quay trở về Hà Nội,
bắt đầu đi học từ năm lớp năm để chuẩn bị cho công cuộc hồi hương.
Phải kể sơ qua về hoàn cảnh
gia đình khá đặc biệt của N. mới hiểu tại sao, mặc dù được sinh ra ở Đức, có
quốc tịch Đức, em lại về Việt Nam.
Mẹ em sau khi tốt nghiệp
Đại học Kinh tế Quốc dân đã gia nhập đoàn quân 40 ngàn người sang xuất khẩu lao
động tại CHDC Đức thời thập niên 80, rồi trong một lần về phép, chị cưới người
yêu cũ, một sĩ quan ngành an ninh. Cuộc tình của họ sẽ không có gì đáng nói nếu
không có vụ Bức Tường Sụp Đổ.
Một đằng là tư bản vốn đang
giãy chết trói quá chặt, một đằng là ngành an ninh không cho phép nhân viên của
mình xuất cảnh, dù chỉ là đi du hí đôi ngày, đôi Ngưu Lang Chức Nữ thời @ cứ
sống cảnh chồng Đông vợ Tây như thế suốt ba thập kỷ. Ba đứa con lần lượt ra đời
sau những lần về phép. N. cũng như các em đều đi học trường Đức. Học lịch sử
German, văn hóa Goethe, xài luật Đức. Nhưng rồi cũng đến lúc cha mẹ các em tính
đến chuyện phải quay trở về, vì bố mẹ không thể xa nhau suốt cả cuộc đời.
Rất nhiều thống kê cho
thấy, trẻ em Việt Nam học tại quê nhà có điểm số vượt trội hơn hẳn trẻ em sống
ở nước ngoài. Điều đó tất nhiên chúng ta có quyền tự hào, theo một khía cạnh
nào đó. Nhưng sự rắc rối nhất không nằm ở đây. N. là một cô bé rất thông minh.
Em nói và viết tiếng Việt như người Việt vì từ lúc sinh ra hè nào mấy mẹ con
cũng về Việt Nam với bố. Vấn đề rắc rối nằm ở chỗ, em luôn nói những gì mình
nghĩ, phản ứng tất cả những gì trái với chính kiến của em.
Giáo dục Đức hoàn toàn khác
với giáo dục Việt Nam. Ở Đức, trẻ em có quyền nói tất cả những gì mà chúng nghĩ
và không ai quy tội như thế là “vô
lễ”, “mất dạy”.
Chúng chỉ được dạy dỗ để làm một người lịch sự, có giáo dục, nhưng không ai bắt
chúng phải lễ độ theo kiểu nói những gì thầy cô muốn được nghe. Con bé xinh
xắn, rạng rỡ, hiếu động và tự tin bao nhiêu thì ở môi trường Việt Nam, lại càng
là cái gai trong mắt giáo viên bấy nhiêu. Mẹ N. tâm sự, vấn đề lớn nhất không
phải là con bé không hòa hợp được, mà là, con chị... không biết nói dối như các
bạn.
Không đi học thêm, N. bị cô
giáo cố tình chấm điểm sai, em lên gặp Ban Giám hiệu, bị “đì” là hớt lẻo. Bạn cóp
bài, em phản ứng, bị tố là phản bội. Em phản ứng và thắc mắc những gì trái với
những điều em được học ở Đức một cách rất hồn nhiên ngây thơ, cô giáo cho em là
“mất dạy”, vì
trò không được phép hỏi vặn cô như thế. Em bị cô lập ở chính nơi người ta dạy
dỗ em bằng tiếng mẹ đẻ. Cứ thế, sau hai tháng, N. bỏ học, tuyệt thực và bố mẹ
phải cho em quay trở lại Đức.
Mình nhớ hồi học lớp Hai,
một lần “cấp trên”
xuống kiểm tra, thế là cả trường nhốn nháo tổng vệ sinh rất rôm rả. Chúng mình
tham gia tích cực lắm. Đang hoan hỉ sung sướng thì cô giáo dặn: “Không em nào được nói hớ một câu gì
nhé. Chỉ cần lỡ mồm “trường mình hôm nay sạch thế” là chết rồi! Nếu có ai hỏi,
các em phải nói là trường mình ngày nào cũng quét dọn y như hôm nay!”.
Hồi đó, mình may mắn được
học một thế hệ các thày cô rất ôn hòa, mực thước, tuy đời sống hết sức đạm bạc
nhưng đều cố gắng tôn trọng, giữ gìn phẩm cách của nhà giáo. Suốt cả quãng thời
gian cắp sách, trong mình chỉ là những hồi ức êm đềm, tràn ngập lòng biết ơn
kính trọng đối với các thầy cô. Nhưng “bài
học nói dối đầu tiên” ấy, mình vẫn ghi nhớ đến tận bây giờ. Nó là
vết gạch đầu tiên lên tờ giấy trắng ngây thơ của tâm hồn con trẻ. Tuy không có
gì to tát nhưng cũng là một hạt sương buồn giữa vùng trời ấm áp mang tên nghề
giáo.
Bài học nói dối ấy chỉ là
một hạt cát trên sa mạc nếu đem so với vụ nói dối tập thể của giáo viên và học
sinh trường Tiểu học Nam Trung Yên. Khoan nói đến động cơ bị thúc ép, bị vận
động, sợ bị đuổi học, bị nghỉ dạy... v.v, nói dối là nói dối. Chỉ từ chiếc taxi
đâm gẫy chân em học sinh lớp hai tại sân trường, đến những tờ khảo sát trơ trẽn
và láo xược, cho chúng ta thấy, Ban Giám hiệu trường Nam Trung Yên đang thách
thức pháp luật, thách thức lương tâm của không chỉ gia đình nạn nhân, mà còn
của toàn thể học sinh và phụ huynh trường Nam Trung Yên cũng như tất cả chúng
ta.
Sự phẫn nộ của công luận và
tiếng nói của lương tâm, dù là yếu ớt, đã khiến nhiều cô giáo bắt đầu rời khỏi
trò chơi “nói dối tập thể” mà họ đã hoặc đang tham dự. Lương tâm, cần bắt đầu
bằng sự chiến thắng nỗi sợ hãi.
Sự việc đến đây như thế
nào, hồi kết chắc không có gì bất ngờ nữa. Trừ khi có cái ô thật to, phong bì
thật dầy, vụ việc mới có thể chìm xuống như vụ bảy năm trước, “hiệu trưởng ăn cắp Tạ Thị Bích Ngọc”
vẫn ung dung tại vị và chỉ sau khi bị cáo buộc có bằng chứng tái phạm mới được
nhẹ nhàng thuyên chuyển đi nơi khác, tiếp tục rao giảng đạo đức cho cả một thế
hệ.
Thầy cô dối trá và ăn cắp,
sẽ sản sinh ra những lớp học trò như thế nào? Họ hành nghề được và tiếp tục dạy
dỗ con em chúng ta, chính là vì sự im lặng và thỏa hiệp trong đó có phần đóng
góp không nhỏ của mỗi phụ huynh.
Được đào tạo chính quy tại
Đức, N. sẽ trở thành một sĩ quan cảnh sát, một nghề được tuyển chọn cực kỳ khắt
khe chỉ dành cho những thanh niên ưu tú về phẩm cách, khỏe mạnh về thể chất và
vượt qua được những cuộc trắc nghiệm tâm lý cũng như kiến thức. Nhưng, một
trong những tiêu chuẩn hàng đầu của ngành cảnh sát Đức đó là lý lịch phải tuyệt
đối trong sạch: không trộm cắp và không dối trá!
Nếu hồi đó, cô bé xinh đẹp
này hội nhập được vào môi trường của xã hội Việt, tức là biết im lặng để yên
thân, biết chấp nhận nói dối tập thể để khỏi bị cô lập, thì nước Đức đã không
có một gương mặt nữ cảnh sát hiếm hoi gốc Việt.
Nói dối chưa bao giờ dễ đến
như thế ở Việt Nam. Vì người ta đồng lòng nói dối, rủ nhau nói dối. Một cá nhân
nói dối thì lương tâm còn nhúc nhích nhưng cả tập thể nói dối thì lại là sự
đoàn kết nhất trí cao. Mọi giá trị bị đảo lộn, mọi khái niệm đều bị đánh tráo.
Chúng ta không còn niềm tin vào bất cứ điều gì, bất cứ ai, kể cả chính bản thân
mình. Trong một xã hội dối trá, người nói thật sẽ bị coi là kẻ phản bội.
Trẻ em Việt Nam cần được
quyền nói lên điều mà chúng nghĩ. Các em có quyền làm văn hồn nhiên coi mèo là
bạn mà không sợ bị cô giáo cho điểm kém. Chúng cần được dạy cách miêu tả sự
việc như mắt chúng trông thấy từ chính những nhà giáo biết nhận biết và đánh
vần hai chữ “sự thật”,
thay vì bắt buộc phải uốn lưỡi không nhìn thấy cái xe taxi to hơn con trâu cán
gãy xương bạn ngay trên sân trường như thế nào.
Nếu hôm nay đi học, chúng
mới chỉ bị dụ dỗ điểm chỉ vào tờ khai dạy nói dối tập thể thì lớn lên, chúng
tất sẽ sáng chế ra những siêu phẩm mang tên dối trá. Không chỉ nói dối để yên
thân, bao che cho lợi ích nhóm, chúng còn nói dối để ru ngủ cả một đám đông
giống như những con đà điểu ngờ nghệch tự rúc đầu vào cát để lừa dối chính mình
và bầy đàn.
Con cháu chúng ta còn phải
nghe những phiên bản dối trá cũ mèm như biển bị đầu độc sau mấy tháng đã tự làm
sạch, không có cái gọi là đàn áp nhân quyền và đất nước ta nhìn chung, đã bao
giờ được như thế này chưa, điều đó hoàn toàn phụ thuộc ở thái độ của chính
chúng ta, hôm nay.
Nói thật rất dễ vì bạn
không bao giờ lo sợ bị phát giác.
Kiều Thị An Giang, từ Berlin (CHLB Đức)