ĐỨC GIÊSU, VUA VŨ TRỤ

ĐỨC GIÊSU, VUA TÌNH YÊU

 




Ngày Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính trọng thể Đức Giêsu Kitô Vua.

Vua: người trổi vượt trên tất cả

Vua là người trổi vượt hơn người khác, chiến thắng được tất cả, nên có quyền trên muôn dân. Lịch sử Việt Nam cho thấy sau “ngàn năm nô lệ giặc Tàu”, Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp loạn các sứ quân và trở thành vị vua đầu tiên của đất nước. Ngày nay, khi gọi ai đó là “vua bóng đá”, người ta muốn nói đến những nhân vật xuất chúng như Pelé hay Maradona; hay trong môn cờ vua, người ta nhắc đến Karpov và Kasparov.

Đức Giêsu cũng là Vua, nhưng vượt trên mọi vị vua trần thế: Ngài là Vua các vua, vì “mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ngài” (Mt 28,18). Ngài chấp nhận thân phận con người yếu đuối, nhưng nhờ vâng phục cho đến chết, Ngài đã được Thiên Chúa tôn vinh và đặt làm Chủ của muôn loài. Ngài là Vua của toàn thể vũ trụ.

Trong ánh sáng ấy, các nữ tu Đa Minh – những người sống đời thánh hiến giữa lòng Giáo Hội Việt Nam – được mời gọi chiêm ngắm Đức Kitô như mẫu gương tối hậu của sự trổi vượt: không phải trổi vượt theo kiểu thống trị, nhưng vượt lên trong yêu thương, hy sinh và phục vụ. Giữa các tu viện và các cộng đoàn giáo xứ, đời sống của chị em trở thành lời chứng sống động về vị Vua khác thường ấy.

“Chính để anh em được tự do mà Đức Kitô đã giải phóng anh em” (Gl 5,1)

Với tình yêu và bằng tình yêu, Đức Giêsu đã giải phóng con người để chúng ta được sống tự do và làm chủ chính mình. Tình yêu giải phóng khỏi nô lệ tội lỗi và dẫn con người đến phẩm giá làm con Thiên Chúa.

Đó cũng là lý do nơi các cộng đoàn Đa Minh, chị em luôn cố gắng sống tinh thần hiệp nhất, sẻ chia và tôn trọng nhau. Trong nhịp sống chung hằng ngày – giờ kinh, giờ học, giờ làm việc, giờ phục vụ – mỗi chị học cách chiến thắng cái tôi, vượt thắng những yếu đuối, để sống tự do của người được Đức Kitô giải phóng. Chính sự tự do nội tâm ấy giúp chị em có thể dấn thân quảng đại hơn trong sứ vụ giáo dục và phục vụ người nghèo khổ.

Đức Giêsu: người “yêu” trổi vượt tất cả

Thánh Phaolô trong thư Côlôsê trình bày Đức Giêsu như hình ảnh hoàn hảo của Thiên Chúa vô hình: nhờ Ngài và vì Ngài mọi sự được tạo thành; nhờ máu Ngài, muôn vật được hoà giải. Đức Giêsu trổi vượt trên tất cả vì Ngài yêu đến tận cùng. Ngài chết để người Ngài yêu được sống, hiến mình làm của ăn nuôi dưỡng nhân loại.

Mệnh lệnh Ngài để lại thật đơn sơ mà thách đố: “Hãy yêu nhau như Thầy đã yêu” (Ga 13,35). Yêu thương là dấu hiệu của người thuộc về Ngài. Không hận thù khi bị xúc phạm, không oán trách khi bị loại trừ, nhưng luôn tha thứ và trao ban bình an: đó là phong cách của Vua Tình Yêu.

Chính tình yêu ấy là ngọn lửa nuôi dưỡng đời sống của các nữ tu Đa Minh. Tại những cộng đoàn nhỏ bé trong các giáo xứ trên khắp Việt Nam, chị em lặng lẽ mang tình yêu của Vua Giêsu đến cho mọi người: qua trang giáo án trên lớp học, qua những giờ phụ đạo cho học sinh nghèo, qua nụ cười dành cho trẻ mồ côi hay người già yếu, qua lời an ủi cho người đau khổ. Không ồn ào, không phô trương, chị em làm nên “những phép lạ của tình yêu âm thầm”.

Con vua lại được làm vua: chúng ta được mời gọi làm vua với Đức Kitô

Thiên Chúa tạo dựng con người với phẩm giá làm chủ vũ trụ. “Con vua lại được làm vua”: chúng ta là con Thiên Chúa nên được mời gọi làm chủ chính bản thân, làm chủ những khuynh hướng xấu và cộng tác với Thiên Chúa trong việc xây dựng thế giới.

“Được làm vua, thua làm giặc”: nếu để cho đam mê thống trị, ta trở thành nô lệ của tiền bạc, danh vọng, khoái lạc. Nhưng nếu biết chiến thắng bản thân, ta trở nên tự do và được đặt vào hàng ngũ những người “làm vua với Đức Kitô”.

Sứ mạng này được thể hiện rất cụ thể trong đời sống nữ tu Đa Minh. Mỗi ngày, chị em phải chiến đấu âm thầm: chiến đấu với sự mệt mỏi để tiếp tục đứng lớp; chiến đấu với sự ích kỷ để chăm sóc bệnh nhân, người già, trẻ nhỏ; chiến đấu với lòng tự ái để giữ bình an trong cộng đoàn. Chính những chiến thắng âm thầm đó làm cho cuộc đời chị em trở nên lời tuyên xưng: Đức Giêsu là Vua của đời con.


Ước chi khi chiêm ngắm Đức Kitô Vua, mỗi chúng ta – cách riêng các nữ tu Đa Minh – biết sống trổi vượt trong tình yêu, khiêm nhường trong phục vụ và trung thành trong ơn gọi làm con Thiên Chúa, để chính cuộc đời ta trở thành bài ca tôn vinh Vua của vũ trụ và Vua của lòng người.

(Dựa theo bài suy niệm của Lm Giuse Phạm Thanh Liêm SJ)

CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

 Các Thánh Tử Đạo Việt Nam



Bạn thân mến!

Không biết các bạn có thấy ngộ ngộ bật cười không, mỗi khi mừng lễ các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam? Tại sao máu đổ mà lại cứ vui nhỉ? Nếu như thế, thì không biết có hợp thời và hợp lý không đấy, thưa các bạn?

Vâng, có lý do chính đáng và còn thật là phải đạo nữa đấy, các bạn ạ!

Hôm nay, cùng với toàn thể Hội thánh, cách riêng Giáo hội Việt Nam, chúng ta hân hoan vui sướng, có khi cả nhảy nhót nữa là khác, để reo mừng các bậc Cha Anh của chúng ta đã đoạt giải chiến thắng trong trận chiến oanh liệt giữ vững Đức Tin Kitô giáo. Chúng ta vui là phải thôi, vì chúng ta đang vui cái niềm vui của Thập giá Chúa Kitô, Ông tổ sáng lập đạo Công Giáo. Vì nhờ có thập giá Chúa Kitô, mà loài người chúng ta mới có niềm vui ơn cứu độ. Cũng thế, nhờ máu các Thánh Tử Đạo đổ ra mà mùa gặt truyền giáo của Giáo hội Việt Nam đã, đang, và sẽ tiếp tục còn nở rộ trong các thế hệ mai sau.

Vậy thì, mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải mừng thế nào cho đúng với ý của Giáo hội Mẹ?

Thưa, chúng ta cũng phải theo gương các Ngài để có cái nhìn tươi sáng trước mọi đau khổ thử thách trong ngoài hồn xác. Dù Tình yêu có đòi hỏi yêu sách chúng ta, chúng ta vẫn kiên trung theo Chúa đến cùng, và cho dẫu yêu sách có mang mặc nhiều hy sinh, nhiều từ bỏ, nhiều khước từ trong cuộc sống, ta vẫn cứ can đảm tiến lên theo lời hiệu triệu của Đấng đã nói: Cứ tin tưởng, Ta đã thắng thế gian rồi!  Vì mừng lễ đổ máu mà! Vì có đau khổ mới có vinh quang mà! Và vì không đổ máu không có ơn cứu chuộc cho mình và cho người khác.

Các Thánh Tử Đạo đã hiểu rất sâu điều đó và đã làm gương rất chói sáng cho chúng ta trong việc đặt Chúa trên hết và trước hết. Với ánh nhìn đầy đức tin, các ngài đã coi các khổ hình chịu vì Chúa là một niềm vui, niềm hạnh phúc, nên các ngài hiên ngang, hiên ngang đến khó hiểu, giữa những khổ hình đủ loại do lòng độc ác con người có thể nghĩ ra. Thật đúng các ngài đã nói với con cháu là chúng ta hôm nay lời Thánh Phaolô: Không ai, không gì, không hình khổ nào có thể tách các ngài ra khỏi Tình yêu Thiên Chúa. Cái nhìn đức tin đã khiến các ngài coi khổ hình như là ân huệ của niềm vui Chúa trao tặng cho mình mà  trường hợp của Thánh Nữ Anê Lê Thị Thành sau đây là một bằng chứng:

Trong 117 Thánh Tử Đạo, chỉ có một vị là Thánh Nữ, ngài là một người mẹ của sáu người con. Đó là Thánh Anê Lê Thị Thành, tục gọi là Bà Đê.

Thánh Anê Lê Thị Thành sinh năm 1781 tại Bái Điển, tỉnh Thanh Hóa. Lên 17 tuổi, bà kết hôn với ông Nguyễn Văn Nhất, sinh hạ được sáu người con. Suốt đời bà âm thầm kiên nhẫn xây dựng tổ ấm yêu thương gia đình và biến gia đình thành nguồn suối tình thương. Bà sống đạo đức gương mẫu, hy sinh giúp chồng con, đặc biệt nuôi dạy con chu đáo theo tình thần giáo dục công giáo. Dù khi con cái đã lớn khôn lập gia đình, bà vẫn luôn theo dõi lòng đạo của các con, thúc giục con cái năng tham dự Thánh Lễ và nhận lãnh các bí tích. Bản thân bà rất siêng năng xưng tội rước lễ.

Ông bà Đê có lòng bác ái hay thương giúp đỡ người khác, nhất là trọng kính và giúp đỡ các linh mục gặp khó khăn trong thời cấm đạo. Ông bà dành một khu nhà đặc biệt để các linh mục đến trú ẩn. Chính đức bác ái cùng lòng kính yêu các linh mục và tha thiết với việc truyền giáo ấy, đã đưa bà Thánh Đê đến phúc tử vì đạo.

Số là khi quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh kéo lính đến vây làng Phúc Nhạc vào sáng lễ Phục Sinh 14.4.1841, bà Đê cùng với ông trùm Cơ vội vàng đưa linh mục Lý trốn dưới một cái rãnh sau vườn nhà bà. Nhưng sau một hồi lục soát gắt gao từ trong nhà ra tới ngoài vườn, quân của Trịnh Quang Khanh bắt được Cha Lý. Bà Thành và ông trùm Cơ cũng bị bắt làm một với Cha.

Trong lao tù, Anê Lê Thị Thành bi đánh đập, tra khảo nhiều lần. Lần kia quan quyền đánh bà bằng roi, nhưng thấy bà vẫn gan dạ chịu đựng một cách vui vẻ, nên lại cho dùng thanh củi lớn mà quất vào chân bà, bà vẫn không thối chí. Khi chồng vào thăm trong tù, bà nói với chồng lời đầy đức tin như sau: “Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông chưa chắc chịu nổi, nhưng tôi được ơn Đức Mẹ giúp sức, nên không cảm thấy đau đớn gì” Lần khác nữa, quan dùng trò dã man hơn, buộc hai ống quần của bà lại, rồi bỏ rắn độc vào bên trong. Bà hoảng sợ, nhưng bà cầu nguyện tha thiết khiến Chúa nhận lời ban cho bà sức mạnh phi thường để chịu đựng những thử thách vượt quá sức người của bà. Thế là bà vẫn giữ được bình tĩnh một cách lạ lùng. Bà đứng yên không nhúc nhích. Rắn không cắn bà và tìm cách chui ra ngoài. Quan thấy thế, điên tiết lên, càng ra lệnh đánh bà dữ dằn hơn trước.

Một nhân chứng tên là Đang về sau cho biết: “Bà Anê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân hình bà đầy máu mủ. Vậy mà bà vẫn vui vẻ và còn muốn chịu khó hơn nữa”. Con cái đến thăm bà, thấy mẹ thương tích vì đòn vọt, khóc lóc thương mẹ, bà âu yếm vỗ về các con, khuyên chúng về kiên tâm cầu nguyện cho mẹ. Chẳng hạn cô Lucia Nụ, con gái út của bà đến thăm mẹ trong ngục, thấy áo quần mẹ loang lổ máu, đã òa lên khóc nức nở. Bà an ủi con: “Con đừng khóc, mẹ  mặc áo hoa hồng đấy con ạ! Mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc”. Bà còn nhắn nhủ cô Nụ: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá Chúa Giêsu cho đến cùng. Rồi chẳng bao lâu nữa, mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”. Chồng bà cũng đến khuyên giục bà nên nghĩ đến con cháu mà về với chúng. Bà trả lời: “Anh hãy về lo cho con, hãy trông cậy Chúa phù hộ cho anh đủ sức nuôi dưỡng chúng, còn phần tôi, tôi sẽ phó thác và theo Chúa đến cùng…”

Vì chịu quá nhiều cực hình, thân thể đầy máu mủ, lại do điều kiện vệ sinh trong tù quá tồi tệ và không đủ thuốc thang, bà Anê Đê Lê Thị Thành kiệt sức vì đòn vọt và bị bệnh kiết lỵ, nên đã chết trong tù ngày 12.7.1841 tại Nam Định, thọ 60 tuổi, sau khi dâng lời kinh cuối cùng: “Giêsu, Maria, Giuse, con xin phó thác linh hồn và xác con trong tay Chúa”.

Đức Piô X phong chân phước cho Bà ngày 2.5.1909. Và Đức Gioan Phaolô II suy tôn Bà lên bậc Hiển Thánh ngày 19.6.1988,cùng với 116 vị Thánh khác.

Các bạn ơi, các Thánh tử đạo là thế đó đấy, các bạn ạ. Các Ngài chấp nhận mọi hình khổ khác nhau, nhưng các Ngài cùng sống chết chung cho cùng một Niềm Tin, một Lý Tưởng Giêsu, với sự vui tươi hớn hở hiên ngang hãnh diện, khiến chúng ta vô cùng cảm phục và cả đến thèm khát số phận may mắn của các Ngài nữa.

Thật ra, nếu bạn và tôi để ý một chút thì sẽ nhận ra rằng: hoàn cảnh của tôi cũng như của bạn, Chúa vẫn đang cho có rất nhiều cơ hội để chúng ta thể hiện việc sống chết cho niềm tin vào Chúa Kitô Tử Nạn và Phục Sinh, có khi cũng chẳng kém anh hùng và hiển hách so với các bậc Cha Anh chúng ta xưa đâu, các bạn!

Xin phép đan cử một vài trong muôn ngàn, bạn nhé:

 * Khi các bạn đi đường mà gặp một người hành khất đáng thương lắm, dù đang vội, các bạn cũng cố gắng dừng lại để chia sẻ một chút gọi là tấm lòng với người anh chị em con cùng Cha trên trời đó, nhưng lại rơi hoàn cảnh khó khăn, để ta có dịp thể hiện lòng bác ái, để từ trời Thiên Chúa nhìn xuống thấy: anh chị em chúng nó biết thương yêu, nâng đỡ, đùm bọc lấy nhau trong cuộc sống… Phải chăng đó cũng là một cuộc tử đạo nho nhỏ đấy, bạn nhỉ?

 * Khi các bạn gặp một người mà bạn chẳng ưa, chẳng thích chút nào, nhất là họ mới xúc phạm đến mình, làm cho mình đau khổ nữa, tính tự nhiên bạn chỉ muốn quay mặt đi không nhìn, không tiếp, nhưng nghĩ tới họ cũng là anh chị em con cùng Cha Mẹ trên trời với mình, và bạn đã vì Chúa để làm ngược với tính tự nhiên đó, để sau bao nhiêu cám dỗ, giằng co, cuối cùng bạn đã chiến thắng được chính mình, để trao cho họ một nụ cười thân ái, cảm thông, tha thứ…, thì quả là bạn vừa mới thực trải qua một cuộc tử vì đạo không phải bằng gươm giáo, nhưng bằng dẹp bỏ tự ái,  ý riêng để làm theo điều răn mới Chúa truyền dạy trước khi Ngài chịu chết.

 * Khi đang mạnh khỏe, bỗng nhiên một cơn bệnh hiểm nghèo ập tới, và bạn đã hết sức tìm thầy chạy thuốc nhưng chẳng thuyên giảm; trái lại, bệnh càng nặng thêm. Lúc đó, nếu bạn cố gắng để dần dần vui vẻ vâng theo Thánh ý Chúa định hoàn toàn, thì bạn ơi, bạn đang là vị anh hùng tử đạo rồi đấy!

 * Mỗi khi bạn cảm thấy chán ngại đi tham dự Thánh lễ Chủ nhật, rồi sau đó vì lòng mến Chúa, bạn lại tiếp tục đi; mỗi khi bạn cảm thấy khó chịu không muốn làm điều tốt lành cha mẹ dạy bảo mà mình không thích, sau đó vì lòng kính mến Chúa, vì đức Hiếu thảo, bạn lại ép mình để vâng lời; mỗi khi ai đó làm bạn khó chịu, tính tự nhiên chỉ muốn giận, muốn sùng lên la cho bõ ghét, nhưng nghĩ tới Chúa luôn xử nhân từ với mình là kẻ có tội, bạn dịu xuống và nhẹ nhàng bỏ qua; mỗi khi ai đó nói xấu vu khống cho bạn điều bạn chẳng có, lúc đấy chỉ muốn chơi lại cho họ bẽ mặt để trả thù, nhưng vì nghĩ tới thân phận con người, cả mình nữa, ai chả yếu đuối, nên vì mến Chúa yêu người như Chúa truyền dạy, bạn sẵn lòng tha thứ cho qua phà, thì phải nói thật với bạn là bạn đang tiến vào Thiên Đàng như các Thánh tử đạo Cha Ông chúng ta đấy! *Và nếu bạn được bác sĩ cho biết là bệnh của bạn các bác sĩ bó tay, bạn chỉ còn sống tối đa có sáu tháng nữa thôi. Lúc đầu thật buồn, nhưng sau bạn lấy lại bình tĩnh chấp nhận Thánh Ý Chúa để sẵn sàng vui vẻ ra đi, ai đến thăm bạn cũng thấy bạn tươi cười, thì bạn đang là vị thánh tử đạo vì Thánh ý Chúa rồi đấy!

 Mừng các Thánh Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam trong khuôn khổ Năm Đức Tin của Giáo Hội hôm nay, Mẹ Giáo hội cũng đang thiết tha mời gọi mỗi người hãy là những chứng nhân sống động của Đức Tin trong đời sống hằng ngày hơn, bằng việc luôn sống và làm việc dưới ánh nhìn yêu thương Hiền Phụ của Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng tạo dựng trời đất muôn vật hữu hình và vô hình; đồng thời, can đảm mạnh bạo dấn thân hy sinh làm theo lời Chúa truyền dậy qua Giáo hội, qua các Bề trên, qua các biến cố to nhỏ trong ngoài hồn xác… Có như vậy, mới thật đúng là chúng ta đang bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa; có như vậy, chúng ta mới đang là những môn đệ đích danh của Chúa giữa lòng thế giới hôm nay.

(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Đức Hùng, CRM)

Ngôi đền thờ thiêng liêng

 

THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ
& Ngôi đền thờ Tâm Hồn

Mỗi năm, vào ngày 9 tháng 11, Giáo Hội hân hoan mừng kính lễ Cung hiến Thánh đường Latêranô, được xem là “mẹ của các thánh đường trên thế giới”. Không chỉ là một công trình bằng đá và gỗ, thánh đường này còn là biểu tượng của sự hiệp nhất trong đức tin, nơi mọi tín hữu trên khắp hoàn cầu cùng quy hướng về một niềm tin duy nhất: Đức Giêsu Kitô là nền tảng và là viên đá góc của Hội Thánh.

Trên thế giới này, thánh đường nào có thể có một vị thế cao cả như Thánh đường Latêranô?  Đó là thánh đường lâu đời nhất trong bốn Đại Vương cung Thánh đường ở Rôma. Năm 313, Hoàng đế Constantinô đã hiến cho Giáo Hội cung điện Latêrani trên núi Côêlius khi ông gia nhập Kitô giáo. Đức Giáo hoàng Mintiađê (311-314) cho xây dựng ở đây một thánh đường dâng kính Chúa Giêsu Kitô - Đấng Cứu Thế, đó là Vương cung Thánh đường Latêranô. Đây là biến cố đánh dấu việc chấm dứt ba thế kỷ bách hại đạo khủng khiếp của các triều đại hoàng đế Rôma. Sau đó, Thánh đường được dâng kính thánh Gioan Tẩy giả và thánh Gioan Tông đồ. Thánh đường Latêranô đã là nơi ở của các vị giáo hoàng trong hơn một ngàn năm, cho đến khi Đức Giáo hoàng Nicôlas V (1477-1455) dời Côêlius đến ở Vaticanô. Từ đó đến nay, năm Công Đồng Chung và nhiều hội nghị cấp giáo phận đã nhóm họp tại Thánh đường Latêranô. Chính vì thế, Thánh đường Latêranô không chỉ là nhà thờ chính tòa của Giáo phận Rôma mà còn “là Đầu và là Mẹ của các thánh đường trên khắp thế giới”.

Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung Thánh đường Latêranô là dịp để mỗi người chúng ta chiêm ngắm và suy niệm về đền thờ đích thực chính là thân thể Đức Giêsu Kitô (x. Ga 2,21). Chính Người đã nói: “Hãy phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại.” Đền thờ mà Người nói đến không phải là một kiến trúc trần gian, nhưng là chính thân thể Người nơi tình yêu và ơn cứu độ được biểu lộ trọn vẹn trên thập giá và trong vinh quang phục sinh.

Từ đó, lời mời gọi vang vọng đến mỗi người tín hữu: “Anh em là thân thể Đức Kitô” (1Cr 12,27) và “Anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa” (1Cr 3,16). Đền thờ thiêng liêng ấy chính là tâm hồn mỗi người chúng ta nơi Thiên Chúa muốn ngự trị bằng Thánh Thần Người. Mỗi khi chúng ta sống trong ân sủng, tâm hồn trở nên sáng trong và bình an; còn khi tội lỗi len lỏi, ngôi đền ấy bị rạn nứt, hoang tàn. Nhưng thật diệu kỳ, Thiên Chúa không ngừng lấy lòng thương xót và ân sủng để tái thiết đền thờ ấy trong ta qua bí tích Hòa Giải, qua lời cầu nguyện, qua Thánh Thể và đời sống bác ái.

Cũng như Thánh đường Laterano đã từng trải qua nhiều lần hư hại rồi lại được trùng tu, tâm hồn ta cũng nhiều phen đổ nát bởi yếu đuối và tội lỗi. Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn tái tạo, trang hoàng bằng ân sủng, để ngôi đền thiêng trong ta lại sáng lên, xứng đáng cho Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị.

Lễ Cung hiến Thánh đường Laterano vì thế không chỉ là lễ mừng một công trình vật chất, mà còn là lời mời gọi nội tâm: hãy để Chúa Kitô thanh tẩy, canh tân và dựng lại ngôi đền thờ tâm hồn ta mỗi ngày. Chỉ khi ấy, chúng ta mới thật sự trở nên “đá sống” xây dựng ngôi nhà thiêng liêng của Thiên Chúa giữa lòng thế giới hôm nay.

Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn con, để con trở nên đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự. Xin cho đời con, giữa bao đổ vỡ, vẫn luôn được Chúa tái tạo trong tình yêu và hy vọng, hầu trở nên nơi phản chiếu ánh sáng vinh quang của Ngài.

 

Tháng của các Linh hồn

 

THÁNG 11 – THÁNG CỦA CÁC ĐẲNG LINH HỒN
“Lạy Chúa, xin ban cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.”

Vào những ngày này trong năm, nhiều nơi trên thế giới rộn ràng với những hình ảnh của Halloween: những bộ trang phục ma quái, những chiếc mặt nạ kinh dị, những ngôi nhà “ma ám” được dựng lên như một thú vui mùa thu. Thế nhưng, thật đáng tiếc, ý nghĩa sâu xa về sự chết và đời sống mai hậu lại bị che khuất sau những tiếng cười đùa và sự sợ hãi giả tạo. Hình ảnh “hồn ma” trong văn hóa thế tục trở thành trò giải trí, trong khi với người Kitô hữu, đó là lời nhắc về một mầu nhiệm thiêng liêng – mầu nhiệm của sự sống đời sau.

Trái ngược với cách nhìn của thế gian, Giáo Hội Công Giáo bước vào tháng 11 với hai lễ trọng đầy ý nghĩa: Lễ Các Thánh Nam Nữ (1/11) và Lễ Các Đẳng Linh Hồn (2/11). Hai ngày lễ này mời gọi chúng ta hướng mắt lên Trời và cúi xuống mồ, để nhận ra mối dây hiệp thông nhiệm mầu giữa Hội Thánh khải hoàn, Hội Thánh đau khổ và Hội Thánh lữ hành.

Lễ Các Thánh Nam Nữ là dịp chúng ta tạ ơn Chúa vì muôn vàn linh hồn đã đạt tới vinh quang, là nguồn khích lệ cho người đang sống: “Nếu họ đã nên thánh, chúng ta cũng có thể.” Còn Lễ Các Đẳng Linh Hồn lại gợi chúng ta nhớ đến những người thân yêu đã khuất, những người đang cần lời cầu nguyện và tình yêu của chúng ta để sớm được hưởng nhan thánh Chúa.

Tháng 11 cũng là thời gian đặc biệt để lãnh nhận Ơn Đại Xá  không chỉ cho chính mình mà còn có thể chuyển cầu cho các linh hồn nơi luyện ngục. Mỗi Thánh lễ, mỗi lần viếng nghĩa trang, đọc kinh, hy sinh hay làm việc bác ái… đều có thể trở nên của lễ tình yêu dâng lên cho những người đã ra đi trước chúng ta.

Tuy nhiên, trong thực tế, việc mừng lễ hội Halloween với màu sắc thế tục đang dần làm lu mờ ý nghĩa thiêng liêng của tháng 11. Khi người ta chỉ còn thấy “cái chết” như một trò chơi, họ quên rằng đó là ngưỡng cửa bước vào sự sống vĩnh cửu. Khi người ta chạy theo sự sợ hãi giả tạo, họ đánh mất cơ hội suy niệm về niềm hy vọng thật: “Ai tin vào Ta, dù có chết cũng sẽ được sống.”

Tháng 11 nhắc chúng ta rằng: chết không phải là hết. Trong nguồn ánh sáng đức tin vào Đức Kitô Phúc Sinh, sự chết mở ra cánh cửa của sự sống đời đời. Và lời cầu nguyện của chúng ta, dù nhỏ bé, vẫn là nhịp cầu yêu thương nối liền đôi bờ, giữa người còn sống và người đã khuất, giữa trần gian tạm bợ và Thiên Đàng vĩnh cửu.
Xin cho tháng 11 này, lòng ta tràn đầy lòng biết ơn, hy vọng và yêu thương để mỗi lời kinh dâng lên trở nên dòng suối mát cho các linh hồn đang mong chờ ơn cứu độ.

 

Bổn Mạng và Lễ Giỗ tháng 11