Phân Định Trong Đời Thường - phần 1

 

                    PHÂN ĐỊNH TRONG ĐỜI THƯỜNG – PHẦN 1

 


Làm sao biết được ý Chúa?  Đó là câu hỏi mà nhiều bạn trẻ thường hỏi tôi.  Thật ra câu hỏi này chẳng của riêng ai.  Câu hỏi này đi theo suốt đời con người, đặc biệt với những ai có tâm hồn khao khát kết thân với Chúa.  Chính điều này giúp người tín hữu tìm được ý nghĩa đích thực của đời mình.  Nếu không khao khát thì cần gì phải tìm kiếm ý Chúa.  Ta cứ làm theo điều ta nghĩ, điều ta thích, điều làm ta thấy thoải mái, dễ chịu là được.  Nhưng người đặt mình trong tương quan với Chúa không sống như vậy, không coi mình là trung tâm, không muốn tự định đoạt đời mình.  Họ biết mình là một thụ tạo, và trên đầu mình còn có Đấng tạo ra mình.  Họ muốn sống theo ý muốn của Đấng ấy, không bị áp đặt như một nô lệ, nhưng hạnh phúc như một người con.  Chính việc biết mình đã sống đúng theo ý của Đấng đã cho mình sống trên đời, đem lại cho họ hạnh phúc và bình an.

 

Làm sao biết được ý của Thiên Chúa?  Thiên Chúa có thường giấu kỹ ý muốn của Ngài không?  Hẳn là không rồi.  Thiên Chúa rất muốn bày tỏ ý của Ngài cho con người, cho từng người.  Ngài muốn mặc khải về kế hoạch riêng Ngài có với từng người chúng ta.  John Powel viết một câu rất ý nghĩa:

 

Thiên Chúa sai mỗi người đến thế gian
với một sứ điệp để loan báo,
với một bài ca đặc biệt để hát lên,
với một nghĩa cử yêu thương để ban tặng.

 

Ai cũng có thể hát vang một bài hát đặc biệt, không giống với những bài hát của người khác.  Ai cũng có một sứ điệp đặc biệt để loan báo, và một cách đặc biệt để thể hiện tình yêu.  Chỉ mình Thiên Chúa mới có thể làm cho những đặc biệt và dị biệt đó thành một bản giao hưởng tuyệt vời của hơn 7 tỷ con người.  Mỗi bạn trẻ cũng được mời gọi tìm ra bài ca mà Thiên Chúa muốn mình hát bằng cuộc đời mình.

 

THIÊN CHÚA BÀY TỎ Ý MUỐN CỦA NGÀI CHO CON NGƯỜI

 

Trong Cựu Ước có nhiều cách tìm ý Chúa.  Có thời người ta đi tìm ý Chúa bằng cách bốc thăm (x. Xh 28, 30).  Saul đã bốc thăm để xem ai là người có tội, một bên là ông và Gionathan con trai ông, bên kia là dân Chúa (x. 1 Sm 14, 41).  Saul còn bốc thăm lần nữa để biết giữa ông và Gionathan, ai là người có tội (x. 1 Sm 14, 42).  Việc bốc thăm để tìm ý Chúa sau này bị mai một dần, tuy Tân Ước cũng có lần nói đến việc bốc thăm.  Khi các tông đồ tìm một người thay thế Giuđa, họ đã có hai ứng viên hội đủ mọi điều kiện, đó là Giô-xếp và Mát-thia (Cv 1, 21-23).  Biết chọn ai bây giờ?  Các tông đồ bèn cầu nguyện để xin Chúa cho biết thánh ý.  Và họ đã muốn tìm ý Chúa qua việc bốc thăm (x. Cv 1, 24-26). Ông Mát-thia là người trúng thăm để vào số Mười Hai tông đồ.

 

Có khi con người không phải đi tìm ý Thiên Chúa, mà chính Thiên Chúa đích thân đến với con người để bày tỏ ý định của Ngài.  Câu chuyện cậu Samuel được Chúa gọi ở đền thờ Si-lô là một thí dụ (1 Sm 3).  Đức Chúa cao cả muốn gặp cậu vào ban đêm khi cậu đã yên giấc.  Ngài gọi tên cậu, và cậu đã nghe được tiếng ấy.  Nhưng tiếng gọi của Chúa không khác với tiếng của thầy cả Êli nên Samuel tưởng là thầy mình gọi.  Mau mắn, kính trọng và sẵn sàng, cậu đã chạy đến gặp thầy: Dạ con đây, thầy gọi con.  Chúa đã gọi cậu lần thứ hai, rồi lần thứ ba.  Nhưng cậu vẫn chưa nhận ra tiếng Chúa, cậu vẫn tưởng đó là tiếng thầy Êli.  Nhưng khi Samuel đến gặp Êli lần thứ ba, thì thầy hiểu ra là Samuel không nằm mơ, chính ĐỨC CHÚA gọi Samuel chứ không phải ai khác.  Thầy đã cho Samuel một lời khuyên tuyệt vời: Nếu có ai gọi con thì con thưa: Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.  ĐỨC CHÚA lại gọi tên Samuel lần thứ tư, và gọi tên cậu hai lần (1 Sm 3, 10).  Samuel đã nghe và đáp lại tiếng gọi của ĐỨC CHÚA - Đấng cao cả trò chuyện với một cậu bé trong đêm tối.  Samuel lớn lên, được nuôi bằng những cuộc gặp gỡ như thế, và trở thành ngôn sứ của Chúa để chuyển đạt ý Chúa cho dân.

 

Một câu chuyện khác cũng cho thấy Thiên Chúa tỏ lộ ý định của Ngài cho một người, cả khi người ấy tin chắc là mình đã tìm thấy rồi.  Đó là trường hợp của ông Sao-lô (còn gọi là Sa-un hay Phaolô) trên đường đi Đamát.  Sao-lô coi những người Do-thái tin theo ông Giêsu là những người chạy theo tà đạo.  Ông đi Đamát để bắt những người ấy, trói lại và giải về Giêrusalem (x. Cv 9, 1-2).  Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra với ông.  Lập tức ông biết mình đã sai lầm và trở lại.  Cuộc đời của ông lật sang một trang mới.  Từ một người bách hại Đạo, Sao-lô trở thành vị tông đồ nhiệt thành rao truyền Đạo khắp mọi nơi.

 

Vào ngày 10-9-1946 trên chuyến xe lửa đi từ Calcutta đến Darjeeling để làm tĩnh tâm năm, Mẹ Têrêsa đã nhận được một tiếng gọi mới.  Khi ấy Mẹ đã ở trong Dòng Loreto được gần 20 năm, đã khấn lần cuối, đã làm hiệu trưởng một trường nữ sinh và được mọi người yêu mến vì thánh thiện và tài năng.  Theo lẽ tự nhiên thì cuộc đời Mẹ đã có bến đỗ.  Nhưng ngày hôm đó, một điều xảy ra mà Mẹ không sao giải thích nổi.  Đó là cơn khát của Chúa Giêsu xâm chiếm trái tim Mẹ: khát tình yêu và các linh hồn.  Từ đó Mẹ thấy một ước muốn mãnh liệt làm thỏa cơn khát của Chúa.  Những ngày tháng sau đó, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục thổ lộ với Mẹ về khát khao của lòng mình, và nài xin: “Hãy đến làm ánh sáng của Ta.  Ta không thể đi một mình.”  Ngài xin Mẹ lập một cộng đoàn dòng tu để phục vụ những người nghèo nhất.  Hai năm sau, Mẹ đã ra khỏi Dòng Loreto để bước vào thế giới của người nghèo, trong chiếc áo sari trắng viền xanh.

 

Thiên Chúa đã bày tỏ ý muốn của Ngài cho Samuel, Sao-lê, Têrêsa và muôn vàn người khác trong dòng lịch sử.  Ngài trao cho họ một sứ mạng.  Ngày nay nhiều bạn trẻ cũng có những kinh nghiệm tương tự.  Những kinh nghiệm đánh động trái tim họ và kéo họ đi, nâng họ lên một tầm cao mới, mở ra một chân trời mới.  Cuối cùng họ đã buông mình để theo một tiếng gọi, hay đúng hơn theo một Đấng làm thay đổi hoàn toàn đời họ.

 

(Còn tiếp)

Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Nguồn: https://dongten.net

 

 

 

Hôn Ước Thần Linh

 

                                        HÔN ƯỚC THẦN LINH 

 


Sau lễ Hiển Linh và lễ Chúa Giê-su chịu phép Rửa, hôm nay, Phụng vụ lại giới thiệu với chúng ta một cuộc “thần hiện” thứ ba: đó là phép lạ tại tiệc cưới Ca-na.  Quả vậy, khi thực hiện phép lạ này, Chúa Giê-su diễn tả quyền năng thiên linh của Người, và vinh quang Thiên Chúa cũng được thể hiện qua biến cố đó.  Qua phép lạ làm cho nước biến thành rượu, Đức Giê-su khẳng định: Người đến trần gian để thiết lập một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của ân sủng và bình an.  Cũng như nước với rượu hoàn toàn khác nhau, kỷ nguyên Người thiết lập khác xa với thời của Cựu ước.

 

Sự kết hợp gắn bó giữa Thiên Chúa và con người được so sánh với một hôn lễ.  Cách diễn tả này đã có trong thời Cựu ước.  Thiên Chúa yêu thương con người, không phải là tình yêu của ông chủ đối với đầy tớ; cũng không như một người thợ đối với tác phẩm mình làm ra.  Thiên Chúa yêu thương con người đến “phát ghen.  Ngài mong muốn cho con người được hạnh phúc.  Ai phản bội Ngài, cũng giống như người vợ hay người chồng phản bội bạn đời của mình vậy.  Chúng ta có thể đọc thấy điều này trong ngôn sứ I-sa-i-a và nhất là ngôn sứ Hô-sê.

 

“Vì ngươi sẽ được Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi.  Bảy thế kỷ trước Chúa Giê-su, ngôn sứ I-sa-i-a đã say sưa chiêm ngắm cảnh huy hoàng của Giê-ru-sa-lem trong tương lai, khi Đấng Cứu tinh xuất hiện.  Đó cũng là lúc Ít-ra-en được phục hồi, không còn cảnh hoang tàn như xưa nữa.  Những hình ảnh được dùng để minh họa giúp chúng ta mường tượng một cuộc sống thanh bình, hạnh phúc chan hòa.  Giê-ru-sa-lem và dân tộc Ít-ra-en sẽ là niềm vui cho Thiên Chúa.

 

Niềm vui và vinh quang ấy đã thành hiện thực trong tiệc cưới Ca-na.  Thánh Gio-an là tác giả duy nhất thuật lại sự kiện này.  Trong tác phẩm của mình, vị tác giả này rất “tiết kiệm” khi kể lại các phép lạ.  Ông chỉ tường thuật bảy phép lạ của Chúa Giê-su mà ông gọi là “dấu lạ.  Mỗi dấu lạ đều diễn tả một khía cạnh trong sứ vụ của Chúa Giê-su và đều kèm theo một thông điệp quan trọng.  Tác giả Phúc âm thứ bốn đã làm độc giả ngỡ ngàng khi tả lại việc Đức Giê-su và các môn đệ đi dự tiệc cưới.  Qua sự kiện này, thánh Gio-an muốn khẳng định: Đức Giê-su là Thiên Chúa mang thân phận con người.  Người là một Con Người như mọi người chúng ta, chỉ trừ tội lỗi.  Người tôn trọng tất cả những gì là tốt đẹp và hợp pháp trong cuộc sống đời thường.  Sự hiện diện của Người có sức thánh hóa mọi mối quan hệ, tình cảm và những niềm vui.  Không có điều gì thuộc cuộc sống con người mà lại xa lạ đối với Người.

 

Nếu thánh Gio-an diễn tả một tiệc cưới, thì chúng ta lại thấy vai trò của cô dâu chú rể rất mờ nhạt, trong khi thông thường, hai nhân vật này là trung tâm của bữa tiệc và của mọi lời chúc tụng.  Chính Chúa Giê-su là nhân vật chính trong trình thuật này.  Phải chăng tác giả muốn ngầm giới thiệu với chúng ta: Đức Giê-su là Chú Rể.  Người đến để dẫn đưa nhân loại sang một kỷ nguyên mới.  Người thiết lập mối thân tình giữa Thiên Chúa và nhân loại.  Nơi chính bản thân Người, là sự kết hợp kỳ diệu giữa nhân tính và thiên tính.  Chính vì vậy, kết quả của dấu lạ Ca-na, theo thánh Gio-an, là: Đức Giê-su bày tỏ vinh quang của Người và các môn đệ tin vào Người.  Đây là mục đích chính của dấu lạ và đây cũng là chủ ý của tác giả, khi thuật lại sự kiện này.

 

Nếu Đức Giê-su đã làm phép lạ năm xưa để tỏ bày vinh quang của Người, thì hôm nay, vinh quang Thiên Chúa vẫn tỏ hiện nơi cuộc đời chúng ta.  Thánh Phao-lô đã khẳng định như thế trong Bài đọc II: Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung.  Thánh nhân đã liệt kê những đặc sủng (tức là ân sủng đặc biệt, thể hiện qua những khả năng phi thường): ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn chữa bệnh, ơn làm phép lạ, ơn nói tiên tri, ơn phân định…  Thiên Chúa vẫn tỏ hiện quyền năng và vinh quang của Ngài nơi chúng ta.  Với thiện chí nỗ lực, chúng ta đang cộng tác với Ngài để làm cho hiệu quả của những ơn chúng ta đã lãnh nhận lan tỏa mọi nơi trong cuộc đời trần thế.

 

Sự kiện Ca-na có sự can thiệp của Đức Trinh nữ Ma-ri-a.  Hôm nay, Đức Mẹ vẫn đang nói với chúng ta: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.  Quả vậy, lắng nghe và thực hiện ý Chúa, sẽ đem lại cho chúng ta bình an hạnh phúc.  Hơn thế nữa, việc thực hiện ý Chúa sẽ đem lại những điều lạ lùng trong cuộc đời.

 

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

 

Người Khiêm Tốn

 

                                            NGƯỜI KHIÊM TỐN

 


Trở thành người khiêm nhường, không nhất thiết phải che giấu hết các tài năng, không cần phải giả vờ ngu dốt, không buộc phải sống trong một căn nhà nhỏ hẹp cũ kỹ, ăn mặc rách nát.  Cũng không cần phải lúc nào cũng cúi đầu “vâng vâng, dạ dạ,” đi đứng khom lưng, vẻ mặt đăm chiêu như đang chìm sâu vào miền vô cực nào đấy.  Cũng không nhất thiết phải đi tu, đến nhà thờ, đi lễ chùa, quỳ gối chắp tay thành khẩn, làm biết bao việc hãm mình khổ chế, không ăn ngon mặc đẹp, không đi dự tiệc sang, không dám tiêu xài.  Cũng đừng bao giờ sợ được khen, sợ chìm vào hư danh mà cố tình không cống hiến, không bộc lộ hết sức mình vì lợi ích chung của tập thể.

 

Tất cả những điều này chỉ là bề ngoài.  Việc sống một đời sống kham khổ, chịu sỉ nhục, khinh miệt… có thể là một trợ giúp để có sự khiêm nhường nhưng tự bản thân nó không phải là sự khiêm nhường vì người ta nhiều lúc phải chịu như thế bởi không thể làm gì khác hơn, đành phải cắn răn chịu đựng.  Ngược lại, ăn mặc lịch lãm, được người khác ca tụng, lớn tiếng sửa dạy người khác có thể là những dấu chỉ của sự kiêu căng, nhưng cũng có khi là điều mà người đó cần phải làm vì một lợi ích gì đó hoặc họ xứng đáng được điều đó vì những hy sinh của mình.  Điều quan trọng hơn cả là nội tâm của một con người.

 

Sự khiêm tốn là một cái gì đó rất ngược ngạo, vì người nào tự cho rằng mình khiêm tốn, dù có nói ra hay không, người đó đã trở nên kiêu căng rồi.  Người nào càng ý thức tìm kiếm sự khiêm tốn, người đó càng không bao giờ tìm thấy.  Cứ như một trò đùa, sự khiêm tốn sẽ bỏ người ta mà đi khi nó phát hiện có ai đang tìm cách để có nó.  Trên hành trình của đời sống thiêng liêng, có một thời người ta phải nỗ lực và dùng hết sức để đi tìm, nhưng đến một lúc nào đó, người ta tự thấy không thể làm gì hơn, ngoài việc buông lỏng chính mình để chân lý tự tìm đến.  Càng gồng mình với những cố gắng và mục tiêu, người ta càng thấy hụt hẫng và bế tắc, như đi vào ngõ cụt.  Cố nắm bắt sự khiêm tốn cũng như cố bắt lấy bóng trăng.  Cứ tưởng là có được, nhưng nó cứ mãi vuột khỏi tầm tay.

 

Sự khiêm tốn là đỉnh cao của đời sống thiêng liêng.  Nó là cái mà khi người ta đã có được nó mà chẳng hề hay biết.  Nó không màu không sắc, không mùi không vị.  Nó hệt như cái VÔ bao trùm lấy người ta khi họ đã đạt tới cảnh giới vượt qua mọi bám víu của hồng trần.  Người khiêm tốn thì chẳng biết khiêm tốn là gì, ở đâu.  Người ấy thậm chí còn không ý thức đến sự tồn tại của nó.  Họ chỉ sống như cái bản tính tự nhiên của mình.  Họ hành xử như thế vì đối với họ nó phải là như thế.  Họ bộc lộ ra bên ngoài trọn vẹn cái bản chất của mình, cái “chính mình”, cái làm nên họ trong sự tròn đầy nhất.  Bởi vậy, cảnh giới của sự khiêm nhường là khi người ta đã vượt lên trên sự ý thức, vươn đến cái vô thức.  Vô thức ở đây không có nghĩa là hời hợt, không để ý gì cả theo kiểu tiêu cực, nhưng là một kiểu để mình được chiếm trọn, biến mọi cái chân thiện mỹ trong mình bộc phát một cách tự nhiên như người ta tự nhiên hít thở mà không để ý gì đến nó.

 

Người khiêm tốn là những thánh nhân thật sự, vì họ luôn chan chứa một sự bình an lớn lao trong lòng.  Họ không đeo trên mình những chiếc mặt nạ.  Họ đón nhận mọi sự xảy đến với mình với một sự biết ơn, cả điều tốt lẫn điều xấu.  Họ luôn thấy hài lòng với tất cả mọi sự chung quanh, dù những điều đó có diễn ra theo ý họ hay không.  Họ chấp nhận mọi thất bại, điểm yếu, khiếm khuyết, lỗi lầm của mình một cách chân thành, và xem nó như hồng ân.  Họ không chạy theo những phù hoa bóng mây, không cầu toàn, cầu an, không để mình lệ thuộc vào bất cứ điều gì hay bất cứ ai.  Đây không phải là một kiểu ngông nghênh, bất cần đời, xem thường luật lệ.  Nhưng là một thái độ mềm mỏng như con nước, hay như chiếc bình khoét rỗng chính mình, mở ra cho ân sủng đổ vào.  Kiểu bình an như thế là kết quả của một quá trình dài bỏ mình, rèn luyện mình, gọt dũa mình với biết bao đớn đau, vết thương và nước mắt.

 

Người khiêm tốn cũng là con người rất đẹp.  Họ đẹp một nét đẹp của Thiên Đường, chứ không phải bằng những hình thể của thân xác.  Họ luôn có sức thu hút người khác, khiến người khác cứ tuôn đến tiếp cận với họ.  Ở gần bên người khiêm tốn, ta tự thấy mình như được hưởng lây cái dịu mát của ngọn gió nhân đức, ta thấy dễ chịu như được sưởi ấm giữa trời đông, không một chút kháng cự hay đề phòng.  Có một hương thơm lạ kỳ và cuốn hút nào đấy phát ra từ nơi họ hệt như cánh hoa thơm không cần phải hô vang để gây sự chú ý.  Có thể nói, họ đã hoà quyện mình vào với tự nhiên, vào cái Đạo của vũ trụ.  Họ thật sự trở thành những con người “sống ở thế gian, nhưng đã vào cõi Thiên Đàng.”

 

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

 

Chúa Chiên Của Tôi

 

                                        CHÚA CHIÊN CỦA TÔI

 


Mấy năm trước đây, một bé gái 5 tuổi được đưa vào viện mồ côi.  Mấy ngày trước đó, bố mẹ của em đã cãi vã với nhau, rồi bố em đã bắn chết mẹ em, rồi quay súng lại mà tự vẫn.  Tất cả xảy ra trước sự chứng kiến của em.  Đến ngày Chúa Nhật sau đó, em được đưa đến Nhà thờ Công Giáo để tham dự thánh lễ và sau đó, dự lớp Giáo lý.  Vì sợ cô giáo không hiểu hoàn cảnh của em, người coi sóc viện mồ côi đã phải căn dặn cô giáo: Bố mẹ của em là người vô thần, nên chắc chưa bao giờ bé được nghe về Thiên Chúa, vì vậy, xin cô giáo nhẫn nại với em.  Trong buổi học đầu, cô giáo đã giơ cao một bức hình Chúa Giêsu và hỏi cả lớp: "Có em nào biết đây là ai không?"  Cô bé giơ tay trả lời: "Em biết, đó là người đã ôm em vào lòng sau khi ba má em chết."

 

Câu chuyện của em bé trên đây chỉ là một trong ngàn vạn câu chuyện thương tâm khác đang xảy ra trong xã hội ngày nay.  Chồng giết vợ, mẹ giết con, con giết bố mẹ, bạn bè thanh toán nhau, nhân công ám hại nhau, là những mẩu tin chúng ta thường đọc thấy trong báo hằng ngày.  Trong những ngày tháng gần đây, nạn khủng bố đã gây tang tóc thương đau cho biết bao gia đình.  Những lá thư hăm dọa đã khiến cho con người sống trong lo sợ.  Quân khủng bố đã bất chấp thủ đoạn khi hành động.  Tháng Giêng vừa qua tại Do Thái, lần đầu tiên một phụ nữ đã nổ bom tự sát để giết người.  Sau đó, người ta tìm ra chị ta là một trong những nhân viên cứu thương của thành phố.  Hôm trước cứu người; hôm sau giết người.  Thật là khó hiểu.  Hơn nữa, họ còn coi đây là thánh chiến.  Lắm lúc nghĩ cũng thấy buồn.  Ba tôn giáo lớn trên thế giới: Kitô giáo, Hồi giáo, Do thái giáo cùng tôn thờ một Thiên Chúa của tổ phụ Abraham, thế mà đã mười mấy thế kỷ chém giết nhau.  Con cháu tổ phụ Abraham ngày nay đã đông như sao trên trời như cát dưới biển, đúng như Lời Chúa đã hứa, nhưng tiếc thay con cháu tổ phụ lại cắn xé nhau, để rồi gây tan tác cho đoàn chiên của Chúa.

 

Khi xưa, Chúa Giêsu sống trong một xã hội tuy không hận thù khủng bố, nhưng cũng mang đầy những thù ghét, chia rẽ, kỳ thị và bất công.  Những người Samaritanô, tuy cũng mang giòng máu Do thái, nhưng lại bị người Do thái coi là dân ngoại; những người thu thuế bị coi là người tội lỗi, nên tuyệt đối bị những người "ngoan đạo" xa tránh; những người phong cùi bị đuổi ra sống bên ngoài xã hội.  Đứng trước thảm trạng đó, Chúa Giêsu đã đến và đã ví mình như gà mẹ túc con dưới cánh để bảo vệ và vỗ về.  Chúa đã tỏ tình thương và mối quan tâm đặc biệt đối với những người tội lỗi, nghèo khó, bệnh tật, những người sống bên lề của xã hội.  Chúa cũng ví mình như một Chủ Chiên đến để qui tụ đoàn chiên đã bị chia ly phân tán, và để đem lại sức sống và niềm hy vọng cho đoàn chiên: "Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào."

 

Với hiện trạng của thế giới, Lời Chúa vẫn còn mang một ý nghĩa đặc biệt cho con người ngày nay.  Thật vậy, Chúa Giêsu, Chúa Chiên của chúng ta, đã đến để chúng ta được sống, nhưng không phải sống trong chán chường tẻ lạnh, một cuộc sống vô nghĩa.  Chúa đến là để chiên của Ngài được sống một cách dồi dào, nghĩa là một cuộc sống đầy yên vui, an bình, và yêu thương.  Đó là điều Chúa đã hứa ban cho mỗi người chúng ta, và Ngài đã và đang thực hiện lời hứa của Ngài nơi những con chiên đáp lại lời mời gọi của Ngài và vâng theo sự hướng dẫn của Ngài.

 

Với tình thương bao la của người, Chúa đã đến kêu gọi mỗi người chúng ta hãy tiến bước theo Ngài, hãy nhập đoàn chiên của Ngài.  Đây không phải là lời mời gọi một cách chung chung, nhưng là lời mời có tính cách cá nhân và trực tiếp.  Cũng như ngày xưa Chúa đã đến gặp Nicôđêmô, Giakêu, Matthêu, người đàn bà Samaritanô bên bờ giếng Giacob, và người bất toại bên bờ Bếtsaiđa, thì ngày nay Chúa cũng vẫn còn đến để phù trợ, chữa lành, gặp gỡ, hướng dẫn, và chỉ bảo chúng ta trong cuộc sống.  Ngài ban Thánh Thần của Ngài cho chúng ta để an ủi, nâng đỡ, giúp sức, và sự khôn ngoan, để chúng ta có đủ sức đối diện với mọi khó khăn trong cuộc đời.  Qua Lời Chúa và các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, Ngài bảo vệ và ban ơn giúp chúng ta thoát khỏi nanh vuốt của thần dữ, như những kẻ trộm, đang bày trò hãm hại chúng ta.  Và những khi chúng ta vấp ngã, qua Bí tích Xá giải, Ngài sẵn sàng ôm chúng ta vào lòng để tha thứ yêu thương, như người cha nhân lành đối xử với đức con phung phá.

 

Ước chi chúng ta hãy đáp lại lời mời của Ngài.  Hãy luôn nhận Ngài là Chúa Chiên của mình và luôn tin tưởng vào sự hướng dẫn phù trợ của Ngài.  Có Chúa ở cùng, cho dù bất cứ điều gì xảy ra, tâm hồn chúng ta vẫn tìm được sự bình an.  Không phải là chúng ta sẽ hết phải đau khổ, nhưng vì chúng ta có Chúa là sức mạnh và là nguồn ủi an cho chúng ta, nên không gì lấy mất đi niềm hy vọng và sự bình an trong tâm hồn chúng ta được.  "Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.  Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng tôi" (Tv 23).

 

Lm Gioan Vũ Nghi

 

Bí Tích Của Niềm Hy Vọng

 

BÍ TÍCH CỦA NIỀM HY VỌNG

 


Chúa Nhật trước, khi mừng lễ Hiển Linh, Phụng vụ đã giới thiệu với chúng ta một cuộc “thần hiện” còn gọi là “hiển linh,” tức là Chúa tỏ mình.  Các nhà đạo sĩ từ phương Đông đã cất bước lên đường, vượt qua ngàn nguy khó để thờ lạy một Hài nhi mới sinh.  Các ông vui mừng toại nguyện và đã lên đường trở về xứ sở của mình.

 

Với Chúa Nhật hôm nay, Lễ Chúa Giê-su chịu phép Rửa, chúng ta lại được chiêm ngưỡng một cuộc “thần hiện” khác.  Bên bờ sông Gio-đan, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cùng tỏ mình ra.  Sự kiện này được cả ba Tin Mừng nhất lãm thuật lại như một chứng từ sống động về sứ vụ Thiên sai của Đức Giê-su.  Người là Con Thiên Chúa và là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian.  Cuộc “thần hiện” diễn ra trước sự ngỡ ngàng của dân chúng, kể cả ông Gio-an Tẩy giả, người trước đó đã tiên báo về sự xuất hiện của Đấng Mê-si-a (Đấng Thiên sai).

 

Việc lãnh nhận phép Rửa bởi tay ông Gio-an Tẩy giả đánh dấu khởi đầu sứ vụ công khai của Chúa Giê-su.  Đây là khởi điểm của một chương mới trong lịch sử Cứu độ của Thiên Chúa.  Đây cũng là thời Thiên Chúa an ủi dân Ngài, như ngôn sứ I-sai-a đã báo trước đó khoảng bảy thế kỷ (Bài đọc I).  Vào thời đó, vinh quang Thiên Chúa sẽ tỏ hiện.  Sẽ không còn sợ hãi lo âu nữa, vì Thiên Chúa sẽ làm những gì Ngài đã hứa.  Những dấu hiệu ngôn sứ I-sai-a báo trước đã được thể hiện nơi Chúa Giê-su, trong suốt cuộc sống dương thế của Người.  Đức Giê-su là Con yêu dấu của Chúa Cha, như tiếng nói từ trời đã khẳng định: “Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con.”  “Tiếng nói từ trời,” đó là cách Thiên Chúa hiển linh trong Cựu ước, để truyền lệnh và hướng dẫn dân Ngài.  Đức Giê-su luôn luôn tìm ý Chúa Cha và làm mọi sự, miễn là ý Cha được thể hiện.

 

Theo Giáo lý Công giáo, khi Đức Giê-su chịu phép Rửa tại sông Gio-đan, là lúc Người thiết lập bí tích Rửa tội.  Trong cuộc đàm đạo với ông Ni-cô-đê-mô, thành viên Thượng hội đồng Do Thái, Chúa Giê-su đã nói về tầm quan trọng và ý nghĩa của phép rửa tái sinh (x. Ga 3,3-8).  Trước khi về trời, Người đã truyền lệnh cho các tông đồ đi khắp thế gian, rao giảng cho muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần (x. Mt 28,19-20).

 

Hiệu quả của bí tích Rửa tội là gì?  Sách Giáo lý của Hội Thánh Công giáo trả lời: “Bí tích Rửa tội là nền tảng của toàn bộ đời sống Ki-tô hữu, là cổng vào đời sống thiêng liêng, và là cửa mở ra để lãnh nhận các bí tích khác.  Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và được tái sinh làm con cái Thiên Chúa, được trở thành chi thể của Đức Ki-tô, được tháp nhập vào Hội Thánh và được tham dự vào sứ vụ của Hội Thánh” (số 1213).  Nội dung trích dẫn trên đây rất phong phú, diễn tả những khía cạnh khác nhau của đời sống Ki-tô hữu.  Ơn của bí tích Rửa tội thật kỳ diệu.  Bí tích Rửa tội là khởi điểm cho hành trình theo Chúa, cũng là hành trình của niềm hy vọng.  Những ai đã lãnh nhận bí tích này đều được mời gọi xác tín vào quyền năng và ân sủng yêu thương của Thiên Chúa.  Cùng với Chúa Giê-su, họ được gọi Thiên Chúa là Cha, và được đồng thừa hưởng gia nghiệp vinh quang đời đời.  Đó là ân sủng, vinh dự và sứ mạng mà người tín hữu được hưởng, nhờ bí tích này.  Tiếc rằng có những Ki-tô hữu không mấy ý thức và cảm nhận vinh dự cao quý này.

 

Trong Sắc chỉ công bố Năm Thánh 2025, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô viết: “Niềm hy vọng Ki-tô giáo chính là ở điều này: đối mặt với cái chết, nơi mọi sự dường như chấm dứt, chúng ta biết chắc rằng, nhờ Chúa Ki-tô, qua ân sủng của Người được thông truyền cho chúng ta trong bí tích Rửa tội, “sự sống không mất đi, nhưng được thay đổi” mãi mãi.  Thật vậy, trong bí tích Rửa tội, khi được mai táng với Chúa Ki-tô, chúng ta nhận được nơi Người, Đấng phục sinh, hồng ân sự sống mới phá vỡ bức tường sự chết và biến nó thành một con đường đi về chốn trường sinh” (Số 20).  Theo giáo huấn của Đức Giáo Hoàng, bí tích Rửa tội mở ra cho chúng ta cánh cửa hy vọng, để rồi dẫu rằng cuộc đời này còn nhiều tăm tối âu lo, kể cả sự chết, chúng ta vẫn tin vào Thiên Chúa và tin vào hạnh phúc vĩnh cửu Ngài dành cho người công chính.

 

Phụng vụ hôm nay nhắc nhớ chúng ta về ơn gọi làm con Thiên Chúa, nhờ sự chết và phục sinh của Đức Giê-su.  Trong thư gửi ông Ti-tô là môn sinh của mình, thánh Phao-lô đã lưu ý: “ân sủng của Thiên Chúa dạy chúng ta phải từ bỏ đời sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này.”  Đó cũng chính là những lời giáo huấn thiết thực và quý báu đối với các Ki-tô hữu chúng ta hôm nay.

 

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

 

Chúa Đến Gặp Ban Ngay Trong Tâm Hồn Giữa Những Yếu Đuối

 

CHÚA ĐẾN GẶP BẠN NGAY TRONG TÂM HỒN GIỮA NHỮNG YẾU ĐUỐI

 


Chúa dạy chúng ta xây nhà trên đá.  Lời dạy vững chắc ấy dẫn đến nơi nền đất chắc chắn, dù không thấm nước, đôi khi rẽ quanh co ngang dọc, theo những con đường hẹp, để tránh những đầm lầy hoặc những khu rừng ẩn chứa nhiều nguy hiểm.  Ai được hướng dẫn như thế, có thể có cảm tưởng rằng, mình đang đi mà không có mục tiêu rõ ràng, và có thể bị mất niềm tin vào người đang chỉ đường cho mình.  Khi điều ấy xảy ra, là người đi đường, bạn phải mở rộng tâm hồn và giãi bày những gì đang làm bạn lo lắng.  Vì thế bạn sẽ được giúp đỡ để hiểu rằng, điều mà đối với bạn dường như là một cuộc lang thang vô ích, thì thực ra không gì khác là chính sự yếu đuối và bước đi không không chắc chắn của bạn.

 

Vì vậy, để tránh ảo tưởng và không để bị mình bị cuốn theo, khi mà bạn ít mong đợi nhất, bởi những chuyển động nội tâm làm mê hoặc những ai không có kinh nghiệm trong những điều thiêng liêng, thì điều cần thiết là hãy sửa soạn tâm hồn cho thời điểm mà Thiên Chúa ghé thăm bạn.

 

Có những người nhận được ơn đặc biệt của Chúa một cách chắc chắn đến độ không thể nghi ngờ.  Có những người khác (phần đông là như thế) nhận biết danh Chúa ngang qua sự giáo dục mà họ thụ hưởng: họ phải học hành và trải nghiệm và nhận biết chân lý khi họ được dạy dỗ.  Có những người khác, như thánh Tông Đồ Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Roma (Rm 1:18-21) có thể bị mê hoặc bởi sự hoàn hảo của các tạo vật.

 

Thế nhưng, có một nơi mà Chúa làm cho ta cảm thấy gần gũi với những tâm hồn cao cả, đó là chiều sâu của trái tim và những khát khao cư ngụ nơi đó.  Đó là khát khao về sức sống tràn đầy và một vùng đất mà ở nơi đó sống tự do và an toàn, đó là khát vọng đánh thức mọi tạo vật trên thế giới, đó là nơi chắc chắn mà Thiên Chúa tỏ lộ chính Ngài…

 

Bạn có thể hiểu điều này khi đọc câu chuyện về tổ phụ Abraham: tiếng nói của Chúa thúc giục ông từ bỏ mọi thứ để bắt đầu theo một hành trình vô định: ông đi mà không biết mình đi đâu, nhưng ông có lời hứa của Chúa (Ta sẽ chỉ cho ngươi).  Những lời vang vọng trong trái tim ấy lại chẳng phải là tiếng vọng của niềm khao khát về cuộc sống trọn vẹn, về vùng đất mà với ông, chính là nhà hay sao?

 

Tôi cũng muốn chỉ cho bạn một nơi khác mà Chúa đến gặp chúng ta.  Đó là sự yếu đuối.  Bạn cũng thế, cũng giống như bao người khác, bị đe dọa bởi sự mong manh dễ vỡ.  Bất cứ khi nào nó xuất hiện, bạn không chịu nổi và tìm cách che giấu nó.  Thực tế, bạn cảm thấy yếu đuối, bất lực, và bị đe dọa.  Như thế, nếu từ sâu thẳm tâm hồn mình, bạn có khả năng chấp nhận rằng, tôi yếu đuối, mong manh, không thể mình tự cứu mình, thì khi đó, bạn có thể cảm nhận được sự hiện diện tốt lành của Thiên Chúa, vì Ngài là người Cha đích thực, nâng đỡ bạn và an ủi bạn.

 

Hãy xem cách Thiên Chúa đối xử với tổ phụ Abraham, như đối xử với một người bạn.  Tổ phụ đã nhận được lời Thiên Chúa hứa, và Chúa đã thực hiện lời Ngài hứa.  Chắc chắn không phải vì mưu trí hay vì các cách thức nỗ lực, mà tổ phụ Abraham trở thành bạn của Chúa, mà vì tổ phụ đã học tin tưởng Thiên Chúa, để chiến thắng những lo lắng của bản thân.  Tổ phụ biết Chúa khi một cách rõ ràng, điều mà ông khao khát, đã đến với ông như một quà tặng.  Vì thế, hãy để cho Chúa, ngang qua cuộc sống, dẫn dắt bạn đến sự nhận biết hoàn hảo về sự không thể của bạn, về sự bất lực của bạn: khi bạn ở đáy vực thẳm, ngước mắt nhìn lên, bạn sẽ được hưởng niềm vui từ sự cao cả vô hạn của Thiên Chúa là Cha chúng ta. 

 

Vì thế, đừng hình dung những điều vĩ đại, chẳng hạn những điều đôi khi được kể về một số vị thánh đã có những cuộc hoán cải to lớn hoặc đã phải đối mặt với những hoàn cảnh đặc biệt, để thay đổi cuộc sống của các vị một cách hoàn toàn và ngay lập tức.  Thay vào đó, hãy suy xét về cái nghèo là tình trạng chung của hầu hết mọi người.  

 

Chúng ta càng yếu đuối, thì càng có xu hướng che giấu sự yếu đuối mong manh của mình.  Và với thói quen, chúng ta sẽ dần dần tự thuyết phục và tin rằng, chúng ta thực sự như chúng ta tưởng tượng hoặc như chúng ta muốn.  Vì thế, nếu chúng ta yếu đuối, chúng ta cố gắng che giấu bằng cách tỏ ra mạnh mẽ.  Chúng ta giống như con vật nhỏ bé, cố gắng xù lông để có vẻ lớn hơn và cố gắng tỏ ra nguy hiểm hơn để đe dọa đối thủ, nhưng sự thường là vô ích…

 

Tứ Quyết SJ - Chuyển ngữ từ tiếng Ý

Cuốn sách: Maestro di San Bartolo, Abbi a cuore il Signore, Introduzione di Daniele Libanori, (San Paolo 2020).