CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN - B

CON ĐƯỜNG VỀ ÁNH SÁNG
Gr 31,7-9; Dt 5,1-6; Mc 10,46-52
Một nhóm sinh viên tổ chức tham quan mỏ than Scottish ở Anh Quốc. Mỗi sinh viên được phát một nón bảo hộ của thợ mỏ, đằng trước nón có gắn bóng đèn nối với một bình điện đeo ở thắt lưng.
Người hướng dẫn đưa họ vào buồng thang máy xuống tận đáy hầm than. Tới nơi, ông đề nghị các sinh viên bật đèn trên nón bảo hộ vì con đường dẫn đến khu khai thác tối đen như mực. Mái vòm chỉ cao một mét hai, nên mọi người phải cúi rạp xuống khi di chuyển. Than được chở trên băng tải và đổ vào các toa trên đường ray.
Ngay trước khi nhóm sinh viên đến khu khai thác, người hướng dẫn nói: "Các bạn hãy tắt tất cả các đèn trên nón". Mọi người đều làm theo. Không ai thấy gì cả. Mọi vật đều một màu đen. Trong tăm tối, người thợ mỏ nói: "Hãy cố gắng nhìn kỹ vào ngón tay của bạn". Chẳng ai thấy gì cả. Một vài người bắt đầu sợ hãi. Rồi người thợ mỏ nói một câu mà các sinh viên không bao giờ quên được: "Đây là tình trạng của những người mù".
Tất cả các sinh viên đều hiểu ra. Bị mù thì không bao giờ thấy được ánh sáng hoặc bất cứ thứ gì khác. Họ cũng hiểu tại sao những người thợ mỏ lại thích bầu trời trong xanh và ánh nắng rực rỡ của mặt trời.
Qua đó chúng ta hiểu được ý nghĩa ca khúc của “Đôi mắt” với ca từ dễ thương của Nhạc sĩ Xuân Hồng mà có lẽ ai trong chúng ta cũng biết.
Mẹ cho em đôi mắt sáng ngời,
Để nhìn đời và để làm duyên.
Mẹ cho em đôi mắt màu đen,
Để thương để nhớ, để ghen để hờn.
Đôi mắt em là cửa ngỏ tâm hồn,
Là bài thơ hay nhất,
Là lời ca không dứt,
Là tuyệt tác của thiên nhiên.
Đôi mắt là cửa ngõ tâm hồn,
là tuyệt tác thiên nhiên…
Riêng đối với những người đang yêu thì tất cả cuộc sống, đặc biệt là tình yêu trong trẻo trong đôi mắt như thi sĩ Lưu Trọng Lư đã viết hai câu thơ:
Mắt em là một dòng sông,
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em.
Đôi mắt là cửa ngõ tâm hôn, anh mù Báctimê mù từ lúc mọi sinh, cuộc sống đối với anh là một màu đen tối từ ngày lúc sinh, được Chúa chữa cho sáng mắt và anh đã đi theo Ngài.
Trên đường đi Giêrusalem như đã loan báo ba lần (x. Mc 8,31-33;  9,30-32; 10,32-34), Đức Giêsu và các môn đệ đến  Giêrikhô. Theo các nhà khảo cổ học, Giêrikhô là một thành phố cổ xưa nhất thế giới, đã có người cư ngụ từ năm 7.800 trước Chúa Giáng sinh, với những di tích đồn lũy có từ 7.000 năm trước Chúa Giáng sinh. Giêrikhô tọa lạc về phía đông bắc Giêrusalem, nằm ở 250m dưới măt biển, tại một ốc đảo trong vùng trũng bên sông Giođan nên cảnh vật thiếu sức sống, hoang vắng, lúc nào cũng thấp thoáng bóng dáng thần chết. Tên Giêrikhô trong tiếng Do Thái có nghĩa là "thành phố mặt trăng", chắc chắn để kỷ niệm việc thờ kính trong dân gian xa xưa: Vị thần của ban đêm.
Đức Giêsu và đoàn người đã không dừng lại Giêrikhô như bao nhiêu khách hành hương từ miền Bắc Galilê đi dọc theo sông Giođan lên Giêrusalem để dự lễ Vượt, thì đây là chặng đường cuối cùng, vì chỉ cách thủ đô 35 cây số. Vì thế, Giêrikhô là biểu tượng cho "công việc tiến vào miền đất hứa" ngay sau khi vượt qua sông Giođan. Đối với Đức Giêsu cũng vậy, đó là con đường dẫn đến Giêrusalem, dẫn tới Ngày mai (Mc 11,1).
Khi Chúa Giêsu và các môn đệ đang đi ra khỏi thành thì gặp anh hành khất mù Báctimê, đang ngồi ăn xin ở vệ đường, khi nghe biết Đức Giêsu thành Nadarét đi qua, liền kêu lên: "Hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi". Tước hiệu Con Vua Đavit”, nghĩa là Đức Kitô, Đấng như các lời tiên báo của Ngôn sứ: Đấng Cứu Thế xuất thân tự dòng dõi vua Đavit, Đấng được Thiên Chúa xức dầu bằng Thánh Thần. Ngày mai ở Giêrusalem dân chúng cũng sẽ cầm cành lá vạn tuế trên tay để tung hô Đức Giêsu cùng với tước hiệu “Hỡi con vua Đavít"  (Mc 11,10). Dù rằng theo suy nghĩ con người "Vua" thuộc dòng dõi Đavít mang theo cách hiểu lầm về chính trị "sẽ lập lại vương quyền tại Israel" khi Đức Giêsu lên Giêrusalem là lên "nắm quyền", nhưng Chúa Giêsu đã nhiều lần giải thích vương quyền của Ngài không theo kiểu những quốc gia trần thế (x. Mc 10,42; Mt 27,11; Ga 18,33-36) Người đứng đầu bằng cách làm người sau chót, là nô lệ và là vị vua được giương cao với vương miện bằng gai nhọn để tất cả mọi người nhìn lên và tin thì được cứu độ. "Xin thương xót tôi", tiếng Hy Lạp là "Kyrie Eleison". Sau này xuất phát một truyền thống rất lâu đời của Giáo hội Đông phương dạy các tu sĩ ở Hy Lạp, Libăng, Xyria, Ai Cập, Cappadoce vùng Sa mạc... phương thế tự thánh hóa mình nhờ "lời cầu xin với Đức Giêsu bằng cách chỉ lặp đi lặp lại cách đơn sơ và không biết mỏi mệt những từ này: Lạy Đức Giêsu, xin thương xót. Lạy Đức Giêsu, xin thương xót".
Anh mù Bactimê tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu trước mặt mọi người bằng cách lớn tiếng kêu cầu, bằng cử chỉ vứt bỏ áo choàng (nhu cầu tối cần của anh), bằng cách nhảy lên, vội vã chạy tới Chúa, bất chấp mọi cấm cản của những người chung quanh.
Người hành khất mù được sáng mắt nhờ đức tin như Chúa Giêsu đã khẳng định “Đức tin của con đã cứu con” đối tượng đức tin duy nhất là Đức Giêsu Nagiarét con vua Đavit mà anh đã đặt hết niềm tin vào. Nhờ đức tin sống động ấy, anh mù đã sáng mắt và con hơn nữa anh thấy điều mà những người sáng không được thấy như tin mừng Marco nhấn mạnh: “Anh liền xem thấy, rồi đi theo Người” (Mc 10,52b), theo Ngài lên Giêrusalem.
Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem ra khỏi Giêrikhô, như ra khỏi bóng tối đê tiến về thành đô ánh sáng, thực hiện mầu nhiệm được cứu độ, Ra khỏi thành bóng tối, Ngài cũng kéo anh mù Bectimê được khỏi tối tăm khi cho anh được sáng nhờ đức tin của anh.
Chúng ta cũng duyệt lại đời sống của mình, có còn ở trong bóng tối, như anh mù ở thành Giêrikhô – thành của bóng tối. Chúng ta tín thác với thầy đang trong hành trình tiến về Giêrusalem, Đấng sẽ kéo chúng ta về sự sáng.
Xin Chúa chữa niềm tin còn u tối… U tối của tội lỗi, của bất toàn và của yếu đuối thân phận của con người… U tối của những suy nghĩ, u tối trong cách hành xử với nhau.
Giúp con sáng mắt Chúa ơi!
nhận ra tình Chúa giữa đời gian nan.
Tin tưởng, phó thác, bình an
giã từ bóng tối, vững vàng niềm tin.
                        (Ánh sáng niềm tin, Monica Lệ Thi).

                                            Lm. Vinh Sơn SCJ, Sài gòn,24/10/2015