VUI LÊN NÀO!

 

VUI LÊN NÀO!


 

 “Vui lên nào hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang hãy mừng rỡ trổ bông”. Lời kêu gọi của Isaia không chỉ khơi thêm niềm tin tưởng vào ngày Chúa đến, mà còn đem đến cho dân Chúa niềm hy vọng chứa chan.

           Xin cho mỗi chúng ta biết mở rộng tâm hồn để đón nhận niềm vui Con Chúa đang đến, qua nỗ lực để sống đời thánh thiện, kiên trì trước những thử thách khó khăn như Gioan tẩy giả mời gọi và nêu gương.

 

Vào một buổi trưa hè trời nóng bức oi nực, có dịp vào nhà thờ, tôi chứng kiến một cảnh tượng thật cảm kích và xúc động: Một bà mẹ, hai gối qùy, đôi tay giang rộng, mắt bà chăm chú trông về nhà tạm nhỏ bé, nơi có Chúa Giêsu hiện diện. Bà đến đây vào giờ phút thinh lặng này, mang theo bao nỗi đau buồn quay quắt của kiếp nhân sinh, vì đứa con gái nhỏ vừa mới mất, để đặt lại vấn đề mà chính Gioan và các môn đệ của ông đã từng thắc mắc về Chúa Giêsu: Thầy có phải là Đấng phải đến chăng hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác. Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta có lời giải đáp căn bản khi phải đối mặt với sự dữ cùng những bất công.

Sau lời hứa cứu độ tại vườn địa đàng, con người luôn sống trong mùa vọng khi mong chờ Chúa đến. Đấng phải đến mà Chúa Cha đã hứa, cũng là Đấng mà Isaia loan báo : “Các ngươi sẽ nhìn thấy vinh quang của Chúa và huy hoàng của Thiên Chúa chúng ta. Hãy làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, và hãy làm tăng sức những đầu gối mỏi mòn. Bấy giờ mắt người mù sẽ thấy, tai người điếc sẽ được nghe ……… Họ sẽ không còn đau buồn, và rên xiết sẽ trốn xa.”

Cả một viễn ảnh tươi đẹp đã mở ra trước mắt dân Chúa. Thế nhưng trải qua bao thế hệ tiên tri, lời báo ứng kia vẫn bị che khuất bởi biết bao nhiêu nghiệt ngã và bất công. Ngay đến Gioan tẩy giả, kẻ được gọi là tiên tri của Đấng tối cao cũng cảm thấy hoang mang, nghi ngờ về con người của Đức Kitô. Vì nếu Ngài là Đấng Cứu Thế, được sai đến để giải thoát muôn dân khỏi những xiềng xích bất công, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người nghèo khổ, thì tại sao lại để Gioan tẩy giả rơi vào cảnh tù tội, cũng như không giải thoát ông khỏi bàn tay tàn ác của bạo chúa Hêrôđê.

“Thày có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác”? Trước thắc mắc của đám môn đệ do Gioan sai đến, Chúa Giêsu đã không trả lời trực tiếp mà chỉ mời gọi họ mở lòng để đón nhận Tin Mừng cứu độ : “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy, què được đi, mù được thấy, phong hủi được sạch, điếc được nghe, người chết sống lại và Tin mừng đã được rao giảng cho người nghèo”.

Được Lời Chúa củng cố và soi sáng, Gioan cũng như các môn đệ ông có dịp nhớ lại những gì Chúa đã nói và làm. Họ mau chóng vượt ra khỏi bóng đêm của sự hoài nghi để xác tín vào Đức Kitô. Hơn nữa còn sẵn sàng để làm chứng cho triều đại của Đấng Cứu thế đang đến qua những vất vả cay cực, khó nhọc và truân chuyên, chấp nhận quên mình để phục vụ ý định của Thiên Chúa. Cho dù có phải  chết bởi tay bạo chúa Hêrôđê.

Trong khi chờ đợi ngày Chúa đến giải thoát, Thánh Giacôbê khuyên nhủ chúng ta : “Phải kiên nhẫn và vững tâm như người nông phu chờ đợi cơn mưa đầu mùa cũng như cuối mùa”. Một sự mong chờ trong hy vọng bởi Chúa gần đến để giải thoát và đem chúng ta vào trong niềm vui của mùa gặt ơn cứu độ.

Càng gần đến lễ Giáng Sinh, chúng ta càng cảm thấy nôn nao niềm mong chờ Chúa đến, vì biết rằng : Chúa đến để giải thoát chúng ta khỏi mọi nỗi đau buồn và rên xiết, khỏi mọi xích xiềng và sự chết. Chúng ta sẽ làm gì để có được niềm hy vọng Chúa đến viếng thăm và cứu độ :

* Can đảm lên đừng sợ hãi vì chính Chúa sẽ đến cứu chuộc các ngươi. Cuộc sống chúng ta, tuy có được bảo đảm bởi công ăn việc làm, bởi của cải vật chất, nhưng vẫn còn bao điều lo âu và sợ hãi : sợ chiến tranh, sợ bệnh tật, sợ thất nghiệp, sợ bị hất hủi bỏ rơi, sợ bị người ta làm hại…..Chúng ta có biết nhìn ra nguyên nhân của sợ hãi là vì thiếu Chúa, vắng Chúa, để biết quảng đại đến với Ngài qua các  thánh lễ, giờ chầu, kinh nguyện sáng tối, nhất là bí tích hoà giải, để Ngài giải thoát và đem lại cho chúng ta bình an tâm hồn không ?

* Anh em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến……. Hãy học gương kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ của các tiên tri. Chúa sẽ đến nhưng chưa phải ngay lúc này. Theo lời thánh Giacôbê mời gọi, chúng ta có biết kiên trì chờ đợi cũng như sẵn sàng chịu đựng mọi khó khăn, vất vả, buồn phiền trái ý, tai ương hoạn nạn với niềm xác tín : Chúa sẽ đến để đem lại cho chúng ta niềm vui cuả ngày mùa gặt mới, là một cuộc sống hạnh phúc với Chúa không ?

* Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác? Trước những thất bại đau thương, nhất là bị người khác vu oan giáng hoạ, không ít người đã  đã hoang mang chán nản như Gioan tẩy giả. Chúng ta đã biết góp phần xóa tan những nghi ngờ, chán nản hoang mang nơi anh em, bằng nỗ lực chia sẻ với mảnh đời bất hạnh, an ủi những người sầu đau, bênh chữa người bị áp bức, tháo cởi xiềng xích cho những người đang bị ma quỉ trói cột bởi tội lỗi chưa ?

Như bà mẹ vui mừng hạnh phúc sau cơn đau đớn trong việc sinh nở, thì niềm vui của ngày cứu độ chỉ thực sự đến, khi chúng ta biết theo gương Gioan tẩy giả, lắng nghe và thực thi ý Chúa, sống niềm mong chờ một cách kiên trì nhẫn nại, ngay giữa những hi sinh và đau khổ của cuộc đời người Kitô hữu.

Đừng nghi ngờ, nhưng đầy tin tưởng, chúng ta hãy mạnh dạn đến cùng Chúa, sống theo những gì Ngài mời gọi, vì chỉ có Chúa mới đem đến cho chúng ta niềm vui của một mùa gặt hân hoan và hạnh phúc. Amen.

 

 

 

HÃY SÁM HỐI



 CHÚA NHẬT II MÙA VỌNG ( Năm A )


 

“ Cái rìu đã đặt sát gốc cây. Cây nào không sinh quả tốt thì sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa”. Lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta, cần phải mau mau sám hối vì nước trời đã gần đến. 

Xin Chúa giúp chúng ta biết dọn cho Chúa một con đường, sửa lối cho thẳng để Ngươi đi. Nhờ đó Chúa có thể đến và đem lại cho chúng ta niềm vui của mùa cứu rỗi.

 Sự kiện tổng thống Obama đắc cử nhiệm kỳ hai vào nhà trắng đã lôi kéo dư luận và sự theo dõi của mọi nước, không chỉ vì những tốn kém, mà còn vì những ảnh hưởng đối với nền kinh tế và chính trị thế giới. Điều mà ông đưa ra để lôi cuốn và thuyết phục cử tri là những lời hứa hẹn về một cuộc sống an ninh ổn định, về những chính sách có lợi cho nền kinh tế quốc dân. Ông còn cam kết sẽ làm thay đổi bộ mặt đáng buồn hiện tại bằng những phép lạ kinh tế và một nền hoà bình thực sự.

Năm năm sau khi ông Obama giữ vai trò người lãnh đạo nước Mỹ, những khó khăn vẫn còn đó. Nền kinh tế tụt dốc,  chiến tranh và những xung đột với các nước ngày càng lan rộng. Cuộc sống bấp bênh và đầy những xáo trộn. Bao nhiêu lời hứa hẹn như cơn gió cứ bay dần, và người ta tự hỏi liệu ông còn có thể làm được gì nữa khi mà đã qua năm năm trong vai trò của người đứng đầu nhà trắng.

Điều mà ông Obama và nhiều vị nguyên thủ quốc gia khác không làm được cho thần dân của mình, thì đã có một Vị Vua làm được. Ngài là Đấng Cứu Thế mà Isaia loan báo. Ngài không chỉ mang trên mình cái nguồn gốc nhân loại bất toàn và giới hạn thuộc dòng dõi Đavít, nhưng còn thuộc về dòng dõi Thiên Chúa vì : “Trên người này thần trí Chúa sẽ ngự lại. Thần trí khôn ngoan và minh mẫn, mưu lược và hùng dũng… Thần trí sẽ làm cho Người đầy lòng kính sợ Chúa”. Và vì có cánh tay Chúa phù trì, nên người luôn xét xử mọi sự cách công minh. Kẻ nghèo hèn, hạng bần cùng thấp bé được Ngài quan tâm nâng đỡ. Triều đại của Ngài nở ra trong công lý và hoà bình, được diễn tả qua cuộc sống thanh bình chưa từng thấy : Sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ; bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau….Trẻ con măng sữa thọc tay vào hang rắn lục”. Còn viễn ảnh nào tươi đẹp và hạnh phúc bằng.

Trải qua dòng thời gian, con người vẫn không ngừng vang lên lời cầu xin: Trời cao hãy đổ sương xuống. Và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu chuộc. Và rồi cách đây hơn 2.000 năm, Triều đại công lý và hoà bình yêu thương đã đến khi Con Thiên Chúa, Đức Giêsu xuất hiện. Tuy nhiên như thánh Gioan viết trong đầu Phúc Âm của  Ngài : “ Ngài đã đến nơi nhà của Ngài mà các gia nhân không đón nhận Ngài”. Vì thế, hôm nay qua Gioan tẩy giả, một lần nữa Thiên Chúa gióng lên lời gọi mọi người hãy nỗ lực thực hiện một cuộc canh tân sám hối trở về cùng Thiên Chúa : Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi”.  Lời kêu gọi hoán cải ăn năn vừa cấp bách lại vừa khẩn thiết : “Vì cái rìu đã để sát bên gốc cây rồi. Cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt và quăng vào lửa”.

Như Gioan tiền hô, thánh Phaolô cũng đã chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến nơi lòng dân ngoại bằng cách kêu gọi họ hãy từ bỏ những việc làm mờ ám, và hãy mặc lấy Đức Kitô. Trong thư gửi tín hữu Rôma hôm nay, ngài chỉ ra cho họ cách thế để được Chúa yêu thương đón nhận, đó là : “Anh em hãy chấp nhận nhau như Đức Kitô đã chấp nhận anh em”.

  Ngang qua mầu nhiệm nhập thể, Con Thiên Chúa đã mở lòng đón nhận chúng ta khi chấp nhận làm người, ở cùng chúng ta. Hơn nữa qua cái chết trên thập giá, Ngài còn sẵn sàng giao hòa và tha thứ cho chúng ta, mở ra chúng ta lối nhỏ để bước vào trong vương quốc hạnh phúc.

Để đến được với niềm vui cứu độ, chúng ta cũng phải mở lòng để đón nhận Chúa qua anh em như Gioan kêu gọi: “Các anh phải làm việc lành để tỏ lòng sám hối” :

-  Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi”. Làm sao Chúa có thể đến được với mỗi người, khi trong ta vẫn còn đó những gồ ghề của kiêu ngạo ích kỷ, tự mãn; những quanh co của lừa lọc mánh mung; những hố sâu của đam mê dục vọng xác thịt, hận thù ghen ghét; những lồi lõm của lối sống ăn không nói có, thề dối thề gian. Chúng ta có sẵn sàng để sửa lại con đường lòng mình bằng phảng để Chúa đến viếng thăm và cứu độ không ?

-  Đường đến vương quốc hoà bình cũng là lộ trình của hoà giải, yêu thương. Hôm nay chúng ta có sẵn sàng để thực hiện ngay một cuộc hòa giải trong gia đình : giữa ông với bà; vợ với chồng, cha mẹ với con cái; anh chị em với nhau; với những người trong khu xóm và giáo xứ; với bạn bè đồng nghiệp thân quen, bằng việc hòa giải với bản thân, cũng như hòa giải với nhau như Chúa Giêsu làm gương trên thánh giá không ?.

Lạy Chúa, đã bao mùa vọng đến rồi đi. Thế nhưng tâm hồn chúng con vẫn tím lịm những đau thương và chán chường tội lỗi. Lời thánh Gioan: “Cây nào không sinh quả tốt thì sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa” thúc giục chúng con phải can đảm đứng lên để thực hiện một cuộc trở về với Chúa.

Xin cho chúng con biết nhìn ra đây chính mùa hồng ân, ngày cứu rỗi, để biết mau mắn hoán cải đời sống, thay đổi cách nhìn về anh em, để nhờ đã biết mở ra những nẻo đường hoà giải, yêu thương, tôn trọng công lý và sự thật, sống công bình bác ái, chúng con sẽ từng bước dọn đường cho Vua Công Chính – Hoàng Tử Bình An ngự đến viếng thăm, và đem đến cho chúng con mùa xuân ân phúc.  Amen.

 

Bổn mạng và Lễ giỗ tháng 12


 

Hãy Tỉnh Thức

 


CHÚA NHẬT  I  MÙA VỌNG
  

( Năm  A )

Câu chuyện về chiếc xe đò chở những người ở Tây Nguyên về quê hương miền Bắc bị lũ cuốn trôi trong cơn bão đầu tháng 10 ở miền Trung vẫn còn in đậm trong trí nhiều người. Cái chết của gần 20 người trong đêm mưa bão khiến chúng ta bàng hoàng và sợ hãi.

Câu chuyện giúp chúng ta thêm xác tín vào việc Chúa sẽ đến bất ngờ. Để nhờ đã biết tỉnh thức sẵn sàng như Chúa mời gọi, chúng ta sẽ được đón nhận niềm vui của ngày Chúa đến viếng thăm và cứu độ.

 Ở cái tuổi ngoài 80, người ta rất ít muốn đi xa. Vậy mà  vào năm 2005, chỉ trong vòng 01 năm, ông cố tôi đã về Việt Nam trước sau là 2 lần. Khi được hỏi năm tới ông cố có về nữa không, ông cố đã không ngần ngại trả lời : Có chứ. Chừng nào Chúa cho còn đi được thì còn về. Các sung sướng tiện nghi, cùng vật chất đầy đủ đã không giữ nổi đôi chân run rẩy của ông cố, chỉ vì quê hương là máu thịt, là đất mẹ, là lẽ  sống của cuộc đời.

Một vài suy nghĩ ấy, giúp chúng ta dễ hiểu hơn tâm trạng thổn thức, nhớ nhung và nỗi khao khát nóng bỏng được về lại quê cha đất tổ của Israel hôm nào. Chẳng thế mà  khi họ nghe Isaia loan báo về một cuộc hồi hương, trở về nhà Chúa, lòng họ đã ngập tràn niềm vui sướng. Họ reo hò và mừng hát: “Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa và lên nhà Giacóp”. Về với Chúa là về với yêu thương hạnh phúc, nơi đó thiên đường của bình an đang mở rộng.  Ở đó sẽ không còn cảnh chiến tranh loạn lạc, đau khổ và loạn lạc vì : “người ta sẽ lấy gươm rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm”. Từ trong kinh nghiệm đau thương của hơn một lần lưu đày, Israel hiểu rằng: Chỉ có hạnh phúc, có cứu độ khi biết lắng nghe và bước đi trong đường lối của Thiên Chúa.

Được khích lệ bởi các tiên tri, niềm mong đợi của dân Israel chẳng hề vơi đi theo thời gian năm tháng. Và lịch sử đã thực sự sang trang khi Con Thiên Chúa, Đức Giêsu xuất hiện. Chính qua Ngài mà chúng ta biết rằng : thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến. Câu chuyện lụt đại hồng thủy thời ông Noe giục giã chúng ta hãy luôn sống trong tỉnh thức và sẵn sàng, để ngày Chúa đến sẽ không còn phải là ngày đau thương và bất hạnh.

Phaolô, kẻ đã từng bước đi trong mê lầm tội lỗi. Thế nhưng được ánh sáng của Chúa thức tỉnh trên đường đi Đamas, ông đã  mau chóng dứt mình ra khỏi vũng bùn tội lụy và bước đi trong ánh sáng cứu độ. Qua lá thứ gửi tín hữu Roma, ông đang chỉ cho chúng ta cách thế để được đón nhận niềm vui cứu độ : “Hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tị. Thay vào đó phải mặc lấy Đức Kitô, và sống như Ngài mời gọi.

Bước vào Mùa vọng, Giáo Hội kêu gọi chúng ta hãy mau chóng nhìn ra ngày giờ Thiên Chúa viếng thăm, để biết tỉnh thức sẵn sàng chờ đợi. Bài học của Noe, của dân Do Thái, của Phaolô phải là một kinh nghiệm cho chúng ta hôm nay ngay trong ngày hồng phúc này :

*   “Đêm sắp tàn, ngày lại đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy khí giới sự sáng, hãy mặc lấy Chúa Kitô”. Đâu là những hành vi ám muội còn đang trói cột đời ta trong đam mê tội lỗi : Một tính toán đen tối, một ý định trả thù, một chén rượu, một con bài, những con số đề, những thước phim đen, những lời phê bình nói xấu, những tụ điểm bất chính. Chúng ta có thấy cần phải dứt mình khỏi những việc làm xấu xa, để mặc lấy ánh sáng của Đức Kitô như Ngài mời gọi chưa ?

*    Không chỉ tỉnh thức, Chúa còn kêu gọi chúng ta hãy sẵn sàng vì Chúa đến bất ngờ. Sẵn sàng như ông Noe, luôn biết lo lắng làm đẹp lòng Chúa, sống đời công chính thánh thiện, nên đã được Chúa giải cứu trong ngày lụt đại hồng thủy. Phần chúng ta có biết chuẩn bị cho ngày Chúa đến : bằng  những việc bác ái yêu thương; bằng đời sống tha thứ hy sinh, vui chịu mọi điều phiền muộn trái ý. Nhất là bằng những nỗ lực để thực hành việc kinh nguyện sáng tối, tham dự thánh lễ, các buổi tĩnh tâm, tham gia vào các sinh hoạt chung trong giáo xứ chưa ?

Để thấy rõ hơn tính cách bất chợt của ngày Chúa đến, chúng ta hãy cùng nhau nghe lại bức thư của một người bên Mỹ viết gửi cho bà con ở Việt Nam:

Thưa anh chị, em xin kể cho anh chị và các cháu nghe chuyện động đất xảy ra vào 5 giờ 5 phút chiều ngày 17 tháng 10 năm 1989, khi ấy em và nhà em cùng các cháu vừa về đến nhà. Nhà em và các cháu đã vào trong nhà, còn em đang ở ngoài sân. Bỗng đất tự nhiên rung chuyển, em biết ngay là bị động đất. Lúc ấy em thấy nhà cửa chao qua đảo lại, cây cối nhảy múa lung tung. Em nói với các cháu hãy đọc kinh ăn năn tội. Thật đúng như Lời Chúa nói : Ai ở trên mái nhà thì không thể xuống được. Cho nên lúc nào cũng phải sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan vì không biết ngày giờ nào Chúa đến.

Xin cho chúng ta nhìn ra mùa vọng không chỉ là mùa trông chờ Chúa đến lần thứ nhất tại Belem như một kỷ niệm. Nhưng còn là mong chờ Chúa đến lần thứ hai để đem lại cho chúng ta niềm vui của mùa cứu rỗi.

Nhưng vì Chúa luôn đến cách bất ngờ, vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết. Vì vậy  chúng ta cần phải thức dậy khỏi những đam mê bất chính, đón chờ Chúa đến trong sự tỉnh thức và sẵn sàng, để nhờ đó mà có được niềm vui của việc Chúa đến viếng thăm và cứu độ . Amen .

 

 

ĐỨC GIÊSU, VUA VŨ TRỤ

ĐỨC GIÊSU, VUA TÌNH YÊU

 




Ngày Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính trọng thể Đức Giêsu Kitô Vua.

Vua: người trổi vượt trên tất cả

Vua là người trổi vượt hơn người khác, chiến thắng được tất cả, nên có quyền trên muôn dân. Lịch sử Việt Nam cho thấy sau “ngàn năm nô lệ giặc Tàu”, Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp loạn các sứ quân và trở thành vị vua đầu tiên của đất nước. Ngày nay, khi gọi ai đó là “vua bóng đá”, người ta muốn nói đến những nhân vật xuất chúng như Pelé hay Maradona; hay trong môn cờ vua, người ta nhắc đến Karpov và Kasparov.

Đức Giêsu cũng là Vua, nhưng vượt trên mọi vị vua trần thế: Ngài là Vua các vua, vì “mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ngài” (Mt 28,18). Ngài chấp nhận thân phận con người yếu đuối, nhưng nhờ vâng phục cho đến chết, Ngài đã được Thiên Chúa tôn vinh và đặt làm Chủ của muôn loài. Ngài là Vua của toàn thể vũ trụ.

Trong ánh sáng ấy, các nữ tu Đa Minh – những người sống đời thánh hiến giữa lòng Giáo Hội Việt Nam – được mời gọi chiêm ngắm Đức Kitô như mẫu gương tối hậu của sự trổi vượt: không phải trổi vượt theo kiểu thống trị, nhưng vượt lên trong yêu thương, hy sinh và phục vụ. Giữa các tu viện và các cộng đoàn giáo xứ, đời sống của chị em trở thành lời chứng sống động về vị Vua khác thường ấy.

“Chính để anh em được tự do mà Đức Kitô đã giải phóng anh em” (Gl 5,1)

Với tình yêu và bằng tình yêu, Đức Giêsu đã giải phóng con người để chúng ta được sống tự do và làm chủ chính mình. Tình yêu giải phóng khỏi nô lệ tội lỗi và dẫn con người đến phẩm giá làm con Thiên Chúa.

Đó cũng là lý do nơi các cộng đoàn Đa Minh, chị em luôn cố gắng sống tinh thần hiệp nhất, sẻ chia và tôn trọng nhau. Trong nhịp sống chung hằng ngày – giờ kinh, giờ học, giờ làm việc, giờ phục vụ – mỗi chị học cách chiến thắng cái tôi, vượt thắng những yếu đuối, để sống tự do của người được Đức Kitô giải phóng. Chính sự tự do nội tâm ấy giúp chị em có thể dấn thân quảng đại hơn trong sứ vụ giáo dục và phục vụ người nghèo khổ.

Đức Giêsu: người “yêu” trổi vượt tất cả

Thánh Phaolô trong thư Côlôsê trình bày Đức Giêsu như hình ảnh hoàn hảo của Thiên Chúa vô hình: nhờ Ngài và vì Ngài mọi sự được tạo thành; nhờ máu Ngài, muôn vật được hoà giải. Đức Giêsu trổi vượt trên tất cả vì Ngài yêu đến tận cùng. Ngài chết để người Ngài yêu được sống, hiến mình làm của ăn nuôi dưỡng nhân loại.

Mệnh lệnh Ngài để lại thật đơn sơ mà thách đố: “Hãy yêu nhau như Thầy đã yêu” (Ga 13,35). Yêu thương là dấu hiệu của người thuộc về Ngài. Không hận thù khi bị xúc phạm, không oán trách khi bị loại trừ, nhưng luôn tha thứ và trao ban bình an: đó là phong cách của Vua Tình Yêu.

Chính tình yêu ấy là ngọn lửa nuôi dưỡng đời sống của các nữ tu Đa Minh. Tại những cộng đoàn nhỏ bé trong các giáo xứ trên khắp Việt Nam, chị em lặng lẽ mang tình yêu của Vua Giêsu đến cho mọi người: qua trang giáo án trên lớp học, qua những giờ phụ đạo cho học sinh nghèo, qua nụ cười dành cho trẻ mồ côi hay người già yếu, qua lời an ủi cho người đau khổ. Không ồn ào, không phô trương, chị em làm nên “những phép lạ của tình yêu âm thầm”.

Con vua lại được làm vua: chúng ta được mời gọi làm vua với Đức Kitô

Thiên Chúa tạo dựng con người với phẩm giá làm chủ vũ trụ. “Con vua lại được làm vua”: chúng ta là con Thiên Chúa nên được mời gọi làm chủ chính bản thân, làm chủ những khuynh hướng xấu và cộng tác với Thiên Chúa trong việc xây dựng thế giới.

“Được làm vua, thua làm giặc”: nếu để cho đam mê thống trị, ta trở thành nô lệ của tiền bạc, danh vọng, khoái lạc. Nhưng nếu biết chiến thắng bản thân, ta trở nên tự do và được đặt vào hàng ngũ những người “làm vua với Đức Kitô”.

Sứ mạng này được thể hiện rất cụ thể trong đời sống nữ tu Đa Minh. Mỗi ngày, chị em phải chiến đấu âm thầm: chiến đấu với sự mệt mỏi để tiếp tục đứng lớp; chiến đấu với sự ích kỷ để chăm sóc bệnh nhân, người già, trẻ nhỏ; chiến đấu với lòng tự ái để giữ bình an trong cộng đoàn. Chính những chiến thắng âm thầm đó làm cho cuộc đời chị em trở nên lời tuyên xưng: Đức Giêsu là Vua của đời con.


Ước chi khi chiêm ngắm Đức Kitô Vua, mỗi chúng ta – cách riêng các nữ tu Đa Minh – biết sống trổi vượt trong tình yêu, khiêm nhường trong phục vụ và trung thành trong ơn gọi làm con Thiên Chúa, để chính cuộc đời ta trở thành bài ca tôn vinh Vua của vũ trụ và Vua của lòng người.

(Dựa theo bài suy niệm của Lm Giuse Phạm Thanh Liêm SJ)

CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

 Các Thánh Tử Đạo Việt Nam



Bạn thân mến!

Không biết các bạn có thấy ngộ ngộ bật cười không, mỗi khi mừng lễ các Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam? Tại sao máu đổ mà lại cứ vui nhỉ? Nếu như thế, thì không biết có hợp thời và hợp lý không đấy, thưa các bạn?

Vâng, có lý do chính đáng và còn thật là phải đạo nữa đấy, các bạn ạ!

Hôm nay, cùng với toàn thể Hội thánh, cách riêng Giáo hội Việt Nam, chúng ta hân hoan vui sướng, có khi cả nhảy nhót nữa là khác, để reo mừng các bậc Cha Anh của chúng ta đã đoạt giải chiến thắng trong trận chiến oanh liệt giữ vững Đức Tin Kitô giáo. Chúng ta vui là phải thôi, vì chúng ta đang vui cái niềm vui của Thập giá Chúa Kitô, Ông tổ sáng lập đạo Công Giáo. Vì nhờ có thập giá Chúa Kitô, mà loài người chúng ta mới có niềm vui ơn cứu độ. Cũng thế, nhờ máu các Thánh Tử Đạo đổ ra mà mùa gặt truyền giáo của Giáo hội Việt Nam đã, đang, và sẽ tiếp tục còn nở rộ trong các thế hệ mai sau.

Vậy thì, mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta phải mừng thế nào cho đúng với ý của Giáo hội Mẹ?

Thưa, chúng ta cũng phải theo gương các Ngài để có cái nhìn tươi sáng trước mọi đau khổ thử thách trong ngoài hồn xác. Dù Tình yêu có đòi hỏi yêu sách chúng ta, chúng ta vẫn kiên trung theo Chúa đến cùng, và cho dẫu yêu sách có mang mặc nhiều hy sinh, nhiều từ bỏ, nhiều khước từ trong cuộc sống, ta vẫn cứ can đảm tiến lên theo lời hiệu triệu của Đấng đã nói: Cứ tin tưởng, Ta đã thắng thế gian rồi!  Vì mừng lễ đổ máu mà! Vì có đau khổ mới có vinh quang mà! Và vì không đổ máu không có ơn cứu chuộc cho mình và cho người khác.

Các Thánh Tử Đạo đã hiểu rất sâu điều đó và đã làm gương rất chói sáng cho chúng ta trong việc đặt Chúa trên hết và trước hết. Với ánh nhìn đầy đức tin, các ngài đã coi các khổ hình chịu vì Chúa là một niềm vui, niềm hạnh phúc, nên các ngài hiên ngang, hiên ngang đến khó hiểu, giữa những khổ hình đủ loại do lòng độc ác con người có thể nghĩ ra. Thật đúng các ngài đã nói với con cháu là chúng ta hôm nay lời Thánh Phaolô: Không ai, không gì, không hình khổ nào có thể tách các ngài ra khỏi Tình yêu Thiên Chúa. Cái nhìn đức tin đã khiến các ngài coi khổ hình như là ân huệ của niềm vui Chúa trao tặng cho mình mà  trường hợp của Thánh Nữ Anê Lê Thị Thành sau đây là một bằng chứng:

Trong 117 Thánh Tử Đạo, chỉ có một vị là Thánh Nữ, ngài là một người mẹ của sáu người con. Đó là Thánh Anê Lê Thị Thành, tục gọi là Bà Đê.

Thánh Anê Lê Thị Thành sinh năm 1781 tại Bái Điển, tỉnh Thanh Hóa. Lên 17 tuổi, bà kết hôn với ông Nguyễn Văn Nhất, sinh hạ được sáu người con. Suốt đời bà âm thầm kiên nhẫn xây dựng tổ ấm yêu thương gia đình và biến gia đình thành nguồn suối tình thương. Bà sống đạo đức gương mẫu, hy sinh giúp chồng con, đặc biệt nuôi dạy con chu đáo theo tình thần giáo dục công giáo. Dù khi con cái đã lớn khôn lập gia đình, bà vẫn luôn theo dõi lòng đạo của các con, thúc giục con cái năng tham dự Thánh Lễ và nhận lãnh các bí tích. Bản thân bà rất siêng năng xưng tội rước lễ.

Ông bà Đê có lòng bác ái hay thương giúp đỡ người khác, nhất là trọng kính và giúp đỡ các linh mục gặp khó khăn trong thời cấm đạo. Ông bà dành một khu nhà đặc biệt để các linh mục đến trú ẩn. Chính đức bác ái cùng lòng kính yêu các linh mục và tha thiết với việc truyền giáo ấy, đã đưa bà Thánh Đê đến phúc tử vì đạo.

Số là khi quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh kéo lính đến vây làng Phúc Nhạc vào sáng lễ Phục Sinh 14.4.1841, bà Đê cùng với ông trùm Cơ vội vàng đưa linh mục Lý trốn dưới một cái rãnh sau vườn nhà bà. Nhưng sau một hồi lục soát gắt gao từ trong nhà ra tới ngoài vườn, quân của Trịnh Quang Khanh bắt được Cha Lý. Bà Thành và ông trùm Cơ cũng bị bắt làm một với Cha.

Trong lao tù, Anê Lê Thị Thành bi đánh đập, tra khảo nhiều lần. Lần kia quan quyền đánh bà bằng roi, nhưng thấy bà vẫn gan dạ chịu đựng một cách vui vẻ, nên lại cho dùng thanh củi lớn mà quất vào chân bà, bà vẫn không thối chí. Khi chồng vào thăm trong tù, bà nói với chồng lời đầy đức tin như sau: “Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông chưa chắc chịu nổi, nhưng tôi được ơn Đức Mẹ giúp sức, nên không cảm thấy đau đớn gì” Lần khác nữa, quan dùng trò dã man hơn, buộc hai ống quần của bà lại, rồi bỏ rắn độc vào bên trong. Bà hoảng sợ, nhưng bà cầu nguyện tha thiết khiến Chúa nhận lời ban cho bà sức mạnh phi thường để chịu đựng những thử thách vượt quá sức người của bà. Thế là bà vẫn giữ được bình tĩnh một cách lạ lùng. Bà đứng yên không nhúc nhích. Rắn không cắn bà và tìm cách chui ra ngoài. Quan thấy thế, điên tiết lên, càng ra lệnh đánh bà dữ dằn hơn trước.

Một nhân chứng tên là Đang về sau cho biết: “Bà Anê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân hình bà đầy máu mủ. Vậy mà bà vẫn vui vẻ và còn muốn chịu khó hơn nữa”. Con cái đến thăm bà, thấy mẹ thương tích vì đòn vọt, khóc lóc thương mẹ, bà âu yếm vỗ về các con, khuyên chúng về kiên tâm cầu nguyện cho mẹ. Chẳng hạn cô Lucia Nụ, con gái út của bà đến thăm mẹ trong ngục, thấy áo quần mẹ loang lổ máu, đã òa lên khóc nức nở. Bà an ủi con: “Con đừng khóc, mẹ  mặc áo hoa hồng đấy con ạ! Mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc”. Bà còn nhắn nhủ cô Nụ: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá Chúa Giêsu cho đến cùng. Rồi chẳng bao lâu nữa, mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng”. Chồng bà cũng đến khuyên giục bà nên nghĩ đến con cháu mà về với chúng. Bà trả lời: “Anh hãy về lo cho con, hãy trông cậy Chúa phù hộ cho anh đủ sức nuôi dưỡng chúng, còn phần tôi, tôi sẽ phó thác và theo Chúa đến cùng…”

Vì chịu quá nhiều cực hình, thân thể đầy máu mủ, lại do điều kiện vệ sinh trong tù quá tồi tệ và không đủ thuốc thang, bà Anê Đê Lê Thị Thành kiệt sức vì đòn vọt và bị bệnh kiết lỵ, nên đã chết trong tù ngày 12.7.1841 tại Nam Định, thọ 60 tuổi, sau khi dâng lời kinh cuối cùng: “Giêsu, Maria, Giuse, con xin phó thác linh hồn và xác con trong tay Chúa”.

Đức Piô X phong chân phước cho Bà ngày 2.5.1909. Và Đức Gioan Phaolô II suy tôn Bà lên bậc Hiển Thánh ngày 19.6.1988,cùng với 116 vị Thánh khác.

Các bạn ơi, các Thánh tử đạo là thế đó đấy, các bạn ạ. Các Ngài chấp nhận mọi hình khổ khác nhau, nhưng các Ngài cùng sống chết chung cho cùng một Niềm Tin, một Lý Tưởng Giêsu, với sự vui tươi hớn hở hiên ngang hãnh diện, khiến chúng ta vô cùng cảm phục và cả đến thèm khát số phận may mắn của các Ngài nữa.

Thật ra, nếu bạn và tôi để ý một chút thì sẽ nhận ra rằng: hoàn cảnh của tôi cũng như của bạn, Chúa vẫn đang cho có rất nhiều cơ hội để chúng ta thể hiện việc sống chết cho niềm tin vào Chúa Kitô Tử Nạn và Phục Sinh, có khi cũng chẳng kém anh hùng và hiển hách so với các bậc Cha Anh chúng ta xưa đâu, các bạn!

Xin phép đan cử một vài trong muôn ngàn, bạn nhé:

 * Khi các bạn đi đường mà gặp một người hành khất đáng thương lắm, dù đang vội, các bạn cũng cố gắng dừng lại để chia sẻ một chút gọi là tấm lòng với người anh chị em con cùng Cha trên trời đó, nhưng lại rơi hoàn cảnh khó khăn, để ta có dịp thể hiện lòng bác ái, để từ trời Thiên Chúa nhìn xuống thấy: anh chị em chúng nó biết thương yêu, nâng đỡ, đùm bọc lấy nhau trong cuộc sống… Phải chăng đó cũng là một cuộc tử đạo nho nhỏ đấy, bạn nhỉ?

 * Khi các bạn gặp một người mà bạn chẳng ưa, chẳng thích chút nào, nhất là họ mới xúc phạm đến mình, làm cho mình đau khổ nữa, tính tự nhiên bạn chỉ muốn quay mặt đi không nhìn, không tiếp, nhưng nghĩ tới họ cũng là anh chị em con cùng Cha Mẹ trên trời với mình, và bạn đã vì Chúa để làm ngược với tính tự nhiên đó, để sau bao nhiêu cám dỗ, giằng co, cuối cùng bạn đã chiến thắng được chính mình, để trao cho họ một nụ cười thân ái, cảm thông, tha thứ…, thì quả là bạn vừa mới thực trải qua một cuộc tử vì đạo không phải bằng gươm giáo, nhưng bằng dẹp bỏ tự ái,  ý riêng để làm theo điều răn mới Chúa truyền dạy trước khi Ngài chịu chết.

 * Khi đang mạnh khỏe, bỗng nhiên một cơn bệnh hiểm nghèo ập tới, và bạn đã hết sức tìm thầy chạy thuốc nhưng chẳng thuyên giảm; trái lại, bệnh càng nặng thêm. Lúc đó, nếu bạn cố gắng để dần dần vui vẻ vâng theo Thánh ý Chúa định hoàn toàn, thì bạn ơi, bạn đang là vị anh hùng tử đạo rồi đấy!

 * Mỗi khi bạn cảm thấy chán ngại đi tham dự Thánh lễ Chủ nhật, rồi sau đó vì lòng mến Chúa, bạn lại tiếp tục đi; mỗi khi bạn cảm thấy khó chịu không muốn làm điều tốt lành cha mẹ dạy bảo mà mình không thích, sau đó vì lòng kính mến Chúa, vì đức Hiếu thảo, bạn lại ép mình để vâng lời; mỗi khi ai đó làm bạn khó chịu, tính tự nhiên chỉ muốn giận, muốn sùng lên la cho bõ ghét, nhưng nghĩ tới Chúa luôn xử nhân từ với mình là kẻ có tội, bạn dịu xuống và nhẹ nhàng bỏ qua; mỗi khi ai đó nói xấu vu khống cho bạn điều bạn chẳng có, lúc đấy chỉ muốn chơi lại cho họ bẽ mặt để trả thù, nhưng vì nghĩ tới thân phận con người, cả mình nữa, ai chả yếu đuối, nên vì mến Chúa yêu người như Chúa truyền dạy, bạn sẵn lòng tha thứ cho qua phà, thì phải nói thật với bạn là bạn đang tiến vào Thiên Đàng như các Thánh tử đạo Cha Ông chúng ta đấy! *Và nếu bạn được bác sĩ cho biết là bệnh của bạn các bác sĩ bó tay, bạn chỉ còn sống tối đa có sáu tháng nữa thôi. Lúc đầu thật buồn, nhưng sau bạn lấy lại bình tĩnh chấp nhận Thánh Ý Chúa để sẵn sàng vui vẻ ra đi, ai đến thăm bạn cũng thấy bạn tươi cười, thì bạn đang là vị thánh tử đạo vì Thánh ý Chúa rồi đấy!

 Mừng các Thánh Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam trong khuôn khổ Năm Đức Tin của Giáo Hội hôm nay, Mẹ Giáo hội cũng đang thiết tha mời gọi mỗi người hãy là những chứng nhân sống động của Đức Tin trong đời sống hằng ngày hơn, bằng việc luôn sống và làm việc dưới ánh nhìn yêu thương Hiền Phụ của Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Đấng tạo dựng trời đất muôn vật hữu hình và vô hình; đồng thời, can đảm mạnh bạo dấn thân hy sinh làm theo lời Chúa truyền dậy qua Giáo hội, qua các Bề trên, qua các biến cố to nhỏ trong ngoài hồn xác… Có như vậy, mới thật đúng là chúng ta đang bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa; có như vậy, chúng ta mới đang là những môn đệ đích danh của Chúa giữa lòng thế giới hôm nay.

(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Đức Hùng, CRM)

Ngôi đền thờ thiêng liêng

 

THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ
& Ngôi đền thờ Tâm Hồn

Mỗi năm, vào ngày 9 tháng 11, Giáo Hội hân hoan mừng kính lễ Cung hiến Thánh đường Latêranô, được xem là “mẹ của các thánh đường trên thế giới”. Không chỉ là một công trình bằng đá và gỗ, thánh đường này còn là biểu tượng của sự hiệp nhất trong đức tin, nơi mọi tín hữu trên khắp hoàn cầu cùng quy hướng về một niềm tin duy nhất: Đức Giêsu Kitô là nền tảng và là viên đá góc của Hội Thánh.

Trên thế giới này, thánh đường nào có thể có một vị thế cao cả như Thánh đường Latêranô?  Đó là thánh đường lâu đời nhất trong bốn Đại Vương cung Thánh đường ở Rôma. Năm 313, Hoàng đế Constantinô đã hiến cho Giáo Hội cung điện Latêrani trên núi Côêlius khi ông gia nhập Kitô giáo. Đức Giáo hoàng Mintiađê (311-314) cho xây dựng ở đây một thánh đường dâng kính Chúa Giêsu Kitô - Đấng Cứu Thế, đó là Vương cung Thánh đường Latêranô. Đây là biến cố đánh dấu việc chấm dứt ba thế kỷ bách hại đạo khủng khiếp của các triều đại hoàng đế Rôma. Sau đó, Thánh đường được dâng kính thánh Gioan Tẩy giả và thánh Gioan Tông đồ. Thánh đường Latêranô đã là nơi ở của các vị giáo hoàng trong hơn một ngàn năm, cho đến khi Đức Giáo hoàng Nicôlas V (1477-1455) dời Côêlius đến ở Vaticanô. Từ đó đến nay, năm Công Đồng Chung và nhiều hội nghị cấp giáo phận đã nhóm họp tại Thánh đường Latêranô. Chính vì thế, Thánh đường Latêranô không chỉ là nhà thờ chính tòa của Giáo phận Rôma mà còn “là Đầu và là Mẹ của các thánh đường trên khắp thế giới”.

Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung Thánh đường Latêranô là dịp để mỗi người chúng ta chiêm ngắm và suy niệm về đền thờ đích thực chính là thân thể Đức Giêsu Kitô (x. Ga 2,21). Chính Người đã nói: “Hãy phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại.” Đền thờ mà Người nói đến không phải là một kiến trúc trần gian, nhưng là chính thân thể Người nơi tình yêu và ơn cứu độ được biểu lộ trọn vẹn trên thập giá và trong vinh quang phục sinh.

Từ đó, lời mời gọi vang vọng đến mỗi người tín hữu: “Anh em là thân thể Đức Kitô” (1Cr 12,27) và “Anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa” (1Cr 3,16). Đền thờ thiêng liêng ấy chính là tâm hồn mỗi người chúng ta nơi Thiên Chúa muốn ngự trị bằng Thánh Thần Người. Mỗi khi chúng ta sống trong ân sủng, tâm hồn trở nên sáng trong và bình an; còn khi tội lỗi len lỏi, ngôi đền ấy bị rạn nứt, hoang tàn. Nhưng thật diệu kỳ, Thiên Chúa không ngừng lấy lòng thương xót và ân sủng để tái thiết đền thờ ấy trong ta qua bí tích Hòa Giải, qua lời cầu nguyện, qua Thánh Thể và đời sống bác ái.

Cũng như Thánh đường Laterano đã từng trải qua nhiều lần hư hại rồi lại được trùng tu, tâm hồn ta cũng nhiều phen đổ nát bởi yếu đuối và tội lỗi. Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn tái tạo, trang hoàng bằng ân sủng, để ngôi đền thiêng trong ta lại sáng lên, xứng đáng cho Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị.

Lễ Cung hiến Thánh đường Laterano vì thế không chỉ là lễ mừng một công trình vật chất, mà còn là lời mời gọi nội tâm: hãy để Chúa Kitô thanh tẩy, canh tân và dựng lại ngôi đền thờ tâm hồn ta mỗi ngày. Chỉ khi ấy, chúng ta mới thật sự trở nên “đá sống” xây dựng ngôi nhà thiêng liêng của Thiên Chúa giữa lòng thế giới hôm nay.

Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn con, để con trở nên đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự. Xin cho đời con, giữa bao đổ vỡ, vẫn luôn được Chúa tái tạo trong tình yêu và hy vọng, hầu trở nên nơi phản chiếu ánh sáng vinh quang của Ngài.

 

Tháng của các Linh hồn

 

THÁNG 11 – THÁNG CỦA CÁC ĐẲNG LINH HỒN
“Lạy Chúa, xin ban cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.”

Vào những ngày này trong năm, nhiều nơi trên thế giới rộn ràng với những hình ảnh của Halloween: những bộ trang phục ma quái, những chiếc mặt nạ kinh dị, những ngôi nhà “ma ám” được dựng lên như một thú vui mùa thu. Thế nhưng, thật đáng tiếc, ý nghĩa sâu xa về sự chết và đời sống mai hậu lại bị che khuất sau những tiếng cười đùa và sự sợ hãi giả tạo. Hình ảnh “hồn ma” trong văn hóa thế tục trở thành trò giải trí, trong khi với người Kitô hữu, đó là lời nhắc về một mầu nhiệm thiêng liêng – mầu nhiệm của sự sống đời sau.

Trái ngược với cách nhìn của thế gian, Giáo Hội Công Giáo bước vào tháng 11 với hai lễ trọng đầy ý nghĩa: Lễ Các Thánh Nam Nữ (1/11) và Lễ Các Đẳng Linh Hồn (2/11). Hai ngày lễ này mời gọi chúng ta hướng mắt lên Trời và cúi xuống mồ, để nhận ra mối dây hiệp thông nhiệm mầu giữa Hội Thánh khải hoàn, Hội Thánh đau khổ và Hội Thánh lữ hành.

Lễ Các Thánh Nam Nữ là dịp chúng ta tạ ơn Chúa vì muôn vàn linh hồn đã đạt tới vinh quang, là nguồn khích lệ cho người đang sống: “Nếu họ đã nên thánh, chúng ta cũng có thể.” Còn Lễ Các Đẳng Linh Hồn lại gợi chúng ta nhớ đến những người thân yêu đã khuất, những người đang cần lời cầu nguyện và tình yêu của chúng ta để sớm được hưởng nhan thánh Chúa.

Tháng 11 cũng là thời gian đặc biệt để lãnh nhận Ơn Đại Xá  không chỉ cho chính mình mà còn có thể chuyển cầu cho các linh hồn nơi luyện ngục. Mỗi Thánh lễ, mỗi lần viếng nghĩa trang, đọc kinh, hy sinh hay làm việc bác ái… đều có thể trở nên của lễ tình yêu dâng lên cho những người đã ra đi trước chúng ta.

Tuy nhiên, trong thực tế, việc mừng lễ hội Halloween với màu sắc thế tục đang dần làm lu mờ ý nghĩa thiêng liêng của tháng 11. Khi người ta chỉ còn thấy “cái chết” như một trò chơi, họ quên rằng đó là ngưỡng cửa bước vào sự sống vĩnh cửu. Khi người ta chạy theo sự sợ hãi giả tạo, họ đánh mất cơ hội suy niệm về niềm hy vọng thật: “Ai tin vào Ta, dù có chết cũng sẽ được sống.”

Tháng 11 nhắc chúng ta rằng: chết không phải là hết. Trong nguồn ánh sáng đức tin vào Đức Kitô Phúc Sinh, sự chết mở ra cánh cửa của sự sống đời đời. Và lời cầu nguyện của chúng ta, dù nhỏ bé, vẫn là nhịp cầu yêu thương nối liền đôi bờ, giữa người còn sống và người đã khuất, giữa trần gian tạm bợ và Thiên Đàng vĩnh cửu.
Xin cho tháng 11 này, lòng ta tràn đầy lòng biết ơn, hy vọng và yêu thương để mỗi lời kinh dâng lên trở nên dòng suối mát cho các linh hồn đang mong chờ ơn cứu độ.

 

Bổn Mạng và Lễ Giỗ tháng 11


 

Bổn Mạng và Lễ Giỗ Tháng 10






 

NGƯỜI NỮ TU ĐAMINH ANATASIE: TRUYỀN GIÁO VỚI TINH THẦN "CAN ĐẢM"

 

Chủ đề:

 NGƯỜI NỮ TU ĐAMINH ANATASIE: TRUYỀN GIÁO VỚI TINH THẦN "CAN ĐẢM"

 

Khi nhắc đến hai chữ “truyền giáo”, chúng ta thường nghĩ đến những nhà thừa sai ra đi đến vùng sâu vùng xa, hoặc những nhà giảng thuyết hùng biện giữa quảng trường. Nhưng truyền giáo không chỉ là hoạt động bên ngoài – mà còn là lối sống, là lời chứng bằng cả con người, cả trái tim.

Trong hành trình lịch sử của Hội Thánh, đã có biết bao chứng nhân âm thầm mà vĩ đại. Một trong số đó có Mẹ chúng ta - người Mẹ đáng kính Marie Anastasie – người đã truyền giáo không phải bằng những bài giảng hùng hồn, mà bằng một đời sống can đảm, dấn thân và yêu mến Thiên Chúa đến cùng. Qua gương sáng của Mẹ, chúng ta cũng nỗ lực trở thành người nữ tu Đaminh - Anatasie: truyền giáo với tinh thần can đảm trong ơn gọi và sứ vụ trong thời đại ngày nay.

 

I. Người Nữ Tu Đa Minh Anatasie– Truyền Giáo Với Tinh Thần Can Đảm Trong Đời Sống Cá Nhân.

 

Có thể nói: Truyền giáo trước hết bắt đầu từ đời sống cá nhân – từ sự kết hợp mật thiết với Chúa, từ những hy sinh âm thầm, từ lòng trung tín trong từng khoảnh khắc sống ơn gọi.

 

1.     Can đảm sống đời cầu nguyện giữa bao bận rộn

Dù đảm trách nhiều trách nhiệm lớn lao như sáng lập dòng, dạy học, tổ chức cộng đoàn, Mẹ Anastasie vẫn giữ cho mình một đời sống cầu nguyện sâu xa, trung thành. Mỗi ngày, Mẹ dành thời gian lâu giờ trước Thánh Thể, sống kết hiệp mật thiết với Chúa trong mọi việc.

→ (Qua đó cho thấy) Truyền giáo không thể tách khỏi sự cầu nguyện. Đời sống cá nhân kết hiệp với Chúa là nguồn mạch cho mọi hoạt động tông đồ.

 

2.     Can đảm đối diện với những giới hạn của bản thân

Mẹ Anastasie không phải là người xuất thân giàu có hay được học cao. Tuy nhiên, Mẹ đã dám vươn lên, học hỏi từng chút, biết tự rèn luyện bản thân về trí thức, nhân bản và thiêng liêng để đủ khả năng phục vụ.

→ Như vậy, Truyền giáo bắt đầu từ việc dám vượt lên chính mình, không đầu hàng những giới hạn của bản thân, biết tin vào ơn Chúa và cố gắng không ngừng.

 

3.     Can đảm chịu đựng bệnh tật và đau khổ thể xác

Trong những năm cuối đời, Mẹ chịu đựng nhiều bệnh tật, mệt mỏi, nhưng không than vãn. Trái lại, Mẹ dâng từng đau khổ cá nhân như của lễ cho các linh hồn.

→ Một đời sống cá nhân thấm nhuần tinh thần hy sinh là cách truyền giáo mạnh mẽ nhất – không cần lời, chỉ bằng chứng tá âm thầm.

 

4.     Can đảm chọn sự thinh lặng và khiêm tốn

Dù là người sáng lập dòng, Mẹ Anastasie không tìm địa vị, danh tiếng, nhưng sống rất âm thầm, luôn nhường bước cho người khác. Mẹ làm việc vì Chúa, không vì bản thân.

→ Như vậy, Truyền giáo không nhất thiết phải nổi bật. Một người khiêm tốn, sống thật với ơn gọi của mình, đã là một nhà truyền giáo rồi.

 

5.     Can đảm trung tín từng ngày

Mẹ sống đời tu không phải bằng những hành động phi thường, nhưng bằng lòng trung thành với các giờ kinh, việc bổn phận, và lòng yêu mến Chúa trong từng việc nhỏ.

→ Sự trung tín trong bồn phận hằng ngày với lòng yêu mến là cách truyền giáo chân thực nhất trong đời sống cá nhân của người tu sĩ.

 

*BÀI HỌC CHO CHÚNG TA

 

Qua gương sống của mẹ Anastasie, chúng ta nhận ra rằng:

·        Mỗi người đều có thể truyền giáo bằng chính đời sống cá nhân của mình, không cần phải làm điều lớn lao.

·        Can đảm sống sự thinh lặng, hy sinh và kết hiệp với Chúa là điều thiết yếu để Tin Mừng lan tỏa.

·        Càng sống đời sống nội tâm sâu xa, càng trở thành ánh sáng lặng lẽ nhưng bền vững cho người khác.

 

II. Truyền Giáo Với Tinh Thần Can Đảm Trong Việc Tuân Giữ Ba Lời Khấn.

 

1.     Lời khấn Khiết Tịnh – Can đảm sống yêu thương không chiếm hữu.

Là nữ tu trẻ, xinh đẹp và có nhiều tài năng, Mẹ Anastasie dễ dàng trở thành đối tượng được mến mộ. Nhưng Mẹ đã chọn sống trọn vẹn cho Chúa. Mẹ yêu thương mọi người với một trái tim rộng mở, nhưng không gắn bó cách chiếm hữu.

Mẹ sống đức khiết tịnh không chỉ bằng việc giữ mình trong sạch, mà còn bằng sự thanh thoát trong các tương quan, đặt Chúa làm trung tâm của mọi tình cảm.

Can đảm của Mẹ thể hiện ở chỗ: dám chọn một tình yêu dứt khoát, không chia sẻ, để tình yêu đó trở thành nguồn mạch cho mọi hành động phục vụ và truyền giáo.

Mẹ đã sống trọn lời khấn thanh khiết qua câu Mẹ nói: “Tôi chỉ thuộc về Chúa – và Chúa là tất cả tình yêu tôi cần.”

 

2.     Lời khấn Khó Nghèo – Can đảm sống từ bỏ và tín thác.

Mẹ Anastasie sinh ra trong một gia đình nghèo, nên từ bé đã quen với sự thiếu thốn. Khi vào dòng, Mẹ vẫn chọn sống khó nghèo triệt để: ăn uống đạm bạc, tiết kiệm chính đáng

Là người sáng lập dòng, Mẹ có thể sống thoải mái hơn. Nhưng Mẹ không cho phép mình có đặc quyền. Trái lại, Mẹ luôn chọn phần khó nhất, nặng nhất, chia sẻ với chị em những thiếu thốn nhỏ bé mỗi ngày.

Chính qua đời sống khó nghèo, Mẹ truyền giáo bằng chứng tá: Sống siêu thoát, nhẹ nhàng, tín thác hoàn toàn vào Chúa quan phòng.

Mẹ thường nói: “Người nghèo hiểu tình yêu của Chúa, không phải bằng lời giảng, mà bằng một tấm lòng giống họ.”

 

3.     Lời khấn Vâng Phục – Can đảm đặt ý Chúa trên ý riêng.

Mẹ Anastasie, dù là bề trên, nhiều lần bị hiểu lầm, bị chống đối bởi chính chị em trong cộng đoàn. Có lúc mẹ muốn từ chức, rút lui, nhưng khi cầu nguyện, mẹ hiểu rằng ý Chúa là kiên vững.

Mẹ vâng phục trong những điều trái ý, vâng phục trong khi bị đau bệnh, vâng phục cả khi không hiểu hết kế hoạch Chúa.

Sự vâng phục đó không chỉ là tuân theo lệnh, mà là một hành vi đức tin: “Chúa đang dẫn tôi qua tay người khác.”

Chính qua đời sống vâng phục can đảm đó, mẹ đã truyền giáo bằng sự hiệp nhất, bằng khả năng xây dựng cộng đoàn trong bình an và khiêm hạ.

 

*BÀI HỌC CHO CHÚNG TA

 

·        Đừng xem ba lời khấn như gánh nặng, nhưng là con đường nên thánh và truyền giáo.

·        Mỗi hành động trung thành nhỏ bé trong đời sống hằng ngày đều có giá trị loan báo Tin Mừng.

·        Can đảm sống khác thế gian: yêu không chiếm giữ, sống không tích trữ, vâng phục trong tự do.

Đặc biệt, khi thế giới hôm nay cổ võ chủ nghĩa cá nhân, sự hưởng thụ và nổi loạn, thì người tu sĩ càng cần sống ba lời khấn như một sự phản kháng có tính Tin Mừng – âm thầm nhưng đầy sức mạnh.

 

III. Truyền Giáo Với Tinh Thần Can Đảm Trong Đời Sống Cộng Đoàn.

 

Cộng đoàn tu trì không chỉ là nơi chung sống, mà còn là "đất thánh" nơi Tin Mừng được gieo và lớn lên qua từng hành vi yêu thương, tha thứ, phục vụ và hiệp nhất.

 

1.     Can đảm chấp nhận khác biệt và xung khắc.

·        Mẹ Anastasie, với vai trò là Bề trên sáng lập, nhiều lần phải đối diện với bất đồng, hiểu lầm và thậm chí là chống đối từ một số chị em.

·        Tuy nhiên, Mẹ không bao giờ để mình bị chi phối bởi cảm xúc tiêu cực. Chị luôn lắng nghe, kiên nhẫn, bao dung và không ngừng cầu nguyện để tìm ra cách giải quyết trong yêu thương.

→ Mẹ đã truyền giáo bằng chính thái độ hiền hòa và can đảm gìn giữ sự hiệp nhất giữa chị em.

 

2.     Can đảm phục vụ và hy sinh trong âm thầm

·        Là người sáng lập, Mẹ có quyền ở vị trí cao, nhưng Mẹ thường chọn những việc thấp hèn nhất: quét dọn, giặt giũ, chăm sóc bệnh nhân, chia sẻ phòng với chị em mới.

·        Mẹ luôn sẵn sàng hy sinh thời gian nghỉ ngơi để lắng nghe, khuyên nhủ và nâng đỡ chị em gặp khó khăn.

→ Một cộng đoàn trong đó mỗi người sống phục vụ sẽ trở thành một dấu chỉ sống động của Nước Trời – đó là truyền giáo thực sự.

 

3.     Can đảm sửa lỗi và đón nhận sửa lỗi

·        Mẹ Anastasie thường nhẹ nhàng nhắc nhở các chị em, nhưng cũng rất khiêm tốn đón nhận khi chính mình bị góp ý.

·        Có lần Mẹ nói: “Nếu tôi sai, xin cứ nói. Tôi vui vì có người giúp tôi trở nên thánh thiện hơn.”

→ Tinh thần khiêm tốn và cởi mở như thế không chỉ xây dựng cộng đoàn mà còn là bài học truyền giáo sống động cho thế giới đang thiếu sự lắng nghe.

 

4.     Can đảm làm cầu nối hiệp nhất

·        Trong những lúc cộng đoàn chia rẽ, có sự bất đồng hoặc hiểu lầm, Mẹ luôn là người đứng ra hòa giải.

·        Mẹ không chọn bên, nhưng chọn sự thật trong tình yêu. Mẹ sẵn sàng hy sinh danh dự, uy tín cá nhân để bảo vệ sự hiệp nhất của cộng đoàn.

→ Truyền giáo đôi khi không phải là giảng thuyết, mà là hành động tái tạo sự hiệp thông – bắt đầu từ chính cộng đoàn của mình.

 

5.     Can đảm yêu thương không chọn lựa

·        Mẹ yêu thương mọi người như nhau: từ chị em trẻ đến các sơ già yếu, từ người dễ thương đến người khó tính. Ai cũng được chị tiếp cận với sự kính trọng và lòng bao dung.

·        Mẹ từng nói: “Nếu tôi chọn yêu chỉ người tôi thích, thì tôi chưa sống Tin Mừng.”

→ Một cộng đoàn yêu thương không điều kiện là một lời chứng Tin Mừng rõ ràng và thuyết phục nhất.

 

*BÀI HỌC CHO CHÚNG TA

 

Từ đời sống của Mẹ -Anastasie, chúng ta rút ra được những bài học quý báu:

·        Hãy xem cộng đoàn là nơi đầu tiên để truyền giáo, trước khi đi xa hơn.

·        Cần can đảm để chấp nhận, yêu thương, sửa lỗi và xây dựng trong tinh thần Tin Mừng.

·        Cần sự kiên nhẫn và cầu nguyện để không ngã lòng trước những giới hạn của nhau.

·        Sống trung thành với đời sống cộng đoàn là một sứ vụ truyền giáo thiết thực.

 

IV. Truyền Giáo Với Tinh Thần Can Đảm Trong Những Thách Đố Của Thời Đại.

 

1.     Thách đố về nguồn gốc nghèo hèn & hạn chế bản thân.

·        Xuất thân từ một gia đình nghèo, mẹ không có điều kiện học hành cao như nhiều người khác.

·        Bị xem là “không đủ khả năng” để đảm trách vai trò lãnh đạo hay sứ vụ truyền giáo.

Nhưng Mẹ can đảm vượt qua mặc cảm và định kiến bằng lòng tin vào Chúa và khát khao dâng hiến trọn vẹn.

·        Câu nói của Mẹ: “Chúa không chọn người hoàn hảo, Ngài hoàn thiện người Ngài chọn.”

 

2.     Thách đố từ xã hội thế tục hóa

·        Thế kỷ XIX là thời kỳ Giáo hội Pháp bị bách hại và loại trừ dần khỏi đời sống công cộng.

·        Việc tu hành bị coi là lỗi thời; nhiều người trẻ quay lưng với tôn giáo.

Trong bối cảnh đó, Mẹ Anastasie vẫn dám thành lập một hội dòng mới, chuyên truyền giáo qua giáo dục – đặc biệt là giáo dục đức tin cho thiếu nhi và người nghèo.

Mẹ sống như một phản chứng: giữa một xã hội muốn đẩy lui Thiên Chúa, chị công khai sống cho Ngài.

 

3.     Thách đố trong chính cộng đoàn tu trì.

·        Bị chống đối, bị hiểu lầm, có người không chấp nhận một người trẻ và “ít học” làm sáng lập và bề trên.

Mẹ không phản ứng tiêu cực, nhưng chọn con đường cầu nguyện, thinh lặng và khiêm tốn xây dựng.

·        Chính thái độ yêu thương và hiền hậu ấy là lời rao giảng mạnh mẽ nhất – một hình thức truyền giáo bằng chứng tá sống động.

 

4.     Thách đố từ bệnh tật, giới hạn thể lý.

·        Trong nhiều năm cuối đời, Mẹ phải chịu nhiều cơn đau nặng, sức khỏe yếu, làm việc trong mệt mỏi.

Nhưng không một lời than vãn – trái lại, Mẹ dâng tất cả như của lễ cho sứ vụ truyền giáo.

·        Truyền giáo không chỉ bằng lời, mà còn bằng sự hiến dâng hy sinh trong đau khổ.

 

5.     Thách đố từ tư tưởng “phụ nữ không đủ khả năng truyền giáo”.

·        Vào thời Mẹ sống, vai trò của người nữ trong Giáo hội bị giới hạn nghiêm trọng.

Mẹ phá vỡ tư tưởng ấy bằng cách sống chứng tá: lãnh đạo cộng đoàn, đào tạo chị em, truyền cảm hứng phục vụ cho hàng trăm thiếu nữ.

·        Với lòng can đảm, Mẹ chứng minh rằng: người nữ – khi được ơn Chúa – có thể trở thành khí cụ truyền giáo mạnh mẽ.

 

*BÀI HỌC CHO CHÚNG TA HÔM NAY

 

1.     Thời đại hôm nay cũng đầy thách đố: chủ nghĩa cá nhân, vô thần, hưởng thụ, tương đối hóa chân lý.

2.     Người tu sĩ ai cũng được mời gọi sống tinh thần truyền giáo như Mẹ A-na-ta-si-e:

·        Trung thành trong bổn phận nhỏ bé

·        Can đảm làm điều đúng dù bị hiểu lầm

·        Sống đức tin công khai giữa xã hội thế tục

·        Dâng đau khổ và giới hạn bản thân như một lời rao giảng âm thầm

3.     Chúng ta không được nản lòng trước thách đố, vì chính thách đố làm sáng tỏ ơn gọi truyền giáo của mỗi người.

 

KẾT LUẬN: Trong thế giới hôm nay, người tu sĩ đối diện với vô vàn thử thách như:

·        Tình trạng tục hóa, sống vội, sống hời hợt.

·        Sự vô cảm, cá nhân chủ nghĩa.

·        Áp lực công việc, thiếu ơn gọi, giảm niềm tin.

Nhưng mẹ Anastasie nhắc chúng ta rằng: Dù hoàn cảnh có thế nào, chúng ta vẫn có thể truyền giáo – nếu dám sống Tin Mừng cách can đảm:

·        Dám yêu thương giữa một thế giới ích kỷ.

·        Dám phục vụ khi người khác muốn an nhàn.

·        Dám sống đức tin trong xã hội thế tục.

·        Dám khiêm tốn khi người ta tìm tiếng khen.

 

Chị em chúng ta biết noi gương Mẹ Anastasie: sống đơn sơ, khiêm tốn, can đảm dấn thân – để đời sống của chúng ta cũng trở thành lời rao giảng mang đậm chất của một nữ tu Đaminh-Anatasie đem Tin Mừng cho mọi người, cho chị em và cho thế giới hôm nay.



Sr. Marie Brigette Nguyễn Thị Trâm