Hành Trình Truyền Giáo tại Brazin

        NĂM 1885: HÀNH TRÌNH CỦA NHỮNG NHÀ TRUYỀN

            GIÁO NGƯỜI PHÁP ĐẦU TIÊN TẠI BRAZIL



Khởi đầu

Các linh mục Đa Minh tại Toulouse, đáp lại lời yêu cầu của Đức Giám mục Goyaz, đã thiết lập một sứ vụ truyền giáo ở Brazil, tại Uberaba, vào ngày lễ Các Thánh Nam Nữ năm 1881. Sau một khởi đầu khó khăn, do thiếu kiến thức về ngôn ngữ, họ sẽ sớm có thể rao giảng...Một cơ sở truyền giáo thứ hai sau đó được thành lập ở Goyaz. 

Ngay cả trước khi các Anh em được bổ nhiệm tại Uberaba, Cha Cormier đã đề nghị các nữ tu Đa Minh tại Bor tham gia vào sứ vụ của họ ở Brazil. Thật vậy, Cha Cormier biết rất rõ về các Nữ tu tại Bor: ngài đã giảng cho họ nhiều khóa tĩnh tâm hàng năm liên tiếp (từ năm 1875), khởi xướng cho họ những thực hành phụng vụ Đa Minh và thiết lập Hiến pháp và Nội quy của các Chị. 

Cha nghĩ rằng các Nữ tu Đa Minh ở Bor sẽ rất có giá trị cho sứ mệnh này ở Brazil. Hơn nữa, rất nhanh chóng, các nhà truyền giáo đã hiểu được sự cần thiết của một căn cứ hậu phương, một Cộng đoàn các Nữ tu Đa Minh, sẽ là nơi mở rộng việc rao giảng một cách cụ thể tại địa phương. Ngoài ra, giám mục của Goyaz muốn mở tại thị trấn của mình một trường trung học dành cho nữ sinh và một bệnh viện dành cho người các bệnh nhân, nên đã xin các

Nữ tu Đa Minh giúp cho hai cơ sở này...

Mẹ Dosithée biết rằng có các Nữ tu trong Hội dòng muốn trở thành nhà truyền giáo. Mẹ vui mừng hưởng ứng lời kêu gọi này từ Giáo hội và Dòng Giảng Thuyết và Mẹ đã  đáp lại Cha Cormier rằng họ có thể tin cậy vào các Nữ tu Bor để giúp “vun trồng cờ hiệu của Chúa Kitô trên đất Brazil”.

Sự Chuẩn bị

Từ đó trở đi, mọi người phải bắt đầu chuẩn bị, nâng cao nhận thức giữa các Chị Em.

Mẹ Dosithée đã gọi điện cho Cha Vincent Lacoste trong Khóa tĩnh tâm tháng 9 năm 1881, người sẽ lên đường đến Brazil vài tuần sau đó. Theo bước chân của Cha, các chị em biết tin tức của Cha qua thư từ thường xuyên, đầu tiên là băng qua Đại dương và sau đó đến Uberaba. Trở thành Bề trên ở thành phố này vào năm 1883, Cha càng tích cực hơn nữa trong việc thúc đẩy sự hiện diện của các Nữ tu... 

Các Anh em của Dòng đã gửi lời động viên và khuyên nhủ:

Ở đây có trường dành cho nam sinh nhưng không có trường nào phù hợp dành cho nữu sinh, các em sống và lớn lên hoàn toàn trong sự thiếu hiểu biết. Thật là một cánh đồng rộng lớn cho các Chị em! » (Père Madré)

« Điều vô cùng quan trọng là nếu hai hoặc ba Nữ tu có thể nói ngôn ngữ của người dân khi đến đây. » (Père Lacoste)

« Sẽ có một điều tuyệt vời nữa là một trong các Chị em có thể dạy một chút âm nhạc và đàn piano… đây là một điểm có tầm quan trọng lớn đối với người Brazil...» (Père Madré)

« Các Chị em hãy chọn những người đúng đắn, chín chắn, kiên nhẫn, có đức tính vui vẻ, vững vàng trong lòng đạo đức, vì ắt phải làm việc lớn và nhiều gian khổ. » (Père Cormier)

Dòng Đa Minh ở Lisbonne (Bồ Đào Nha) đã đồng ý chào đón các Nữ tu học tiếng Bồ Đào

Nha miễn phí, Nhà Thương xót (Santa Casa) ở Uberaba đã được thành lập đầy đủ và hợp đồng đã được ký kết giữa Giám mục Goyaz et Giám mục Rodez, tất cả những gì còn lại là tiến bước theo bước chân câc Tông đồ và Thánh Đa Minh.

“Tôi bảo đảm với ngài rằng những cô gái tốt bụng này sẽ được đối xử như một phần đàn chiên rất đặc biệt mà Chúa đã giao phó cho tôi…” (Giám mục Goyaz)

Chúng ta đang ở năm 1884, vào tháng 9. “Thời điểm tĩnh tâm hàng năm sắp đến, chị bề trên đã tập hợp ngay từ đầu các chị em trong cộng đoàn và nói với họ về đề nghị mà Đức Giám mục Goyaz đã đưa ra cho chị. Đồng thời, chị yêu cầu họ xem xét nguyện vọng của mình trước Chúa, đồng thời nói thêm rằng nếu có ai cảm thấy bị lôi cuốn vào sứ vụ này thì vui lòng cho chị biết bằng văn bản vào cuối khóa tĩnh tâm.

Đến ngày kết thúc, Chị Bề trên đã rất xúc động khi thấy trên bàn của mình một số lượng lớn các giấy tờ, trong đó các nữ tu đã gửi chúng cầu nguyện và thậm chí xin được đặt trong số những người được bầu chọn cho sứ vụ ở Brazil..» Vì thế có nhiều lựa chọn. Trong đó có:

Sœur M. Joseph AUBELEAU, (33 tuổi-Bề trên Tu viện), Sœur M. Octavie, (32 tuổi – Phó Bề trên Tu viện), Sœur M. Reginald RECH, (25 tuổi – Công tố viên), Sœur M. Eléonore CAZE, (28 tuổi – Thư ký Hội đồng và Giáo viên Tổng hợp), Sœur M. Hildegarde GAILLARD, (39 tuổi) et Sœur Julienne MAILHES (32 tuổi). 

Mẹ Joseph, Sœur M. Eléonore và Sœur M. Réginald được chỉ định đến Lisbonne trước tiên để học tiếng Bồ Đào Nha.

Việc ra đi được chia làm hai giai đoạn

Vào ngày 29 tháng 1 năm 1889, đã đến lúc nhóm đầu tiên “phải vĩnh biệt gia đình, quê hương, cái nôi thân yêu của Hội Dòng”. Các chị ra đi trong cảm xúc chung mà chúng ta có thể tưởng tượng, cùng với Mẹ Dosithée muốn đích thân dẫn các Chị lên thuyền. Sau khi xin Cha Colchen, Giám tỉnh lúc bấy giờ ở Toulouse, các Chị dừng lại ở Lộ Đức “để giao phó cuộc hành trình và sứ vụ của các Chị cho Nữ Vương Thiên Đàng. Từ đó, nhóm đến Bordeaux và Mẹ Dosithée đã từ biệt các con gái của mình tại bến cảng nơi con tàu lớn đóng quân. Ở đó, biên niên sử cho chúng ta biết, “những cuộc chia tay đau lòng diễn ra nhưng một thế lực siêu nhiên nào đó đã lấn át nỗi đau chia ly”. 

Đó là ngày 5 tháng 2 năm 1885. Vào ngày 9, các Chị đến Lisbon, nơi các chị nhận được sự hiếu khách quảng đại nhất của các Nữ tu Đa Minh. Bất chấp tất cả, đó là thời gian thử thách. Các Chị em Đa Minh, rất bận rộn với công việc của mình, không thể trực tiếp chăm sóc cho các chị em suốt ngày vùi đầu vào sách vở. Tuy nhiên, vào buổi tối, các Chị nói chuyện với các học sinh nội trú và nhờ đó luyện tập được một chút tiếng Bồ Đào Nha. 

Trong khi đó, công tác chuẩn bị vẫn tiếp tục ở Bor cho chuyến khởi hành lớn. Chúng ta có thể đoán được những tháng chờ đợi này sẽ như thế nào! Thật là một sự chuẩn bị khi cung cấp cho các Chị em yêu quý này mọi thứ có thể làm giảm bớt nỗi đau khổ của cuộc sống xa quê hương và sự thiếu hụt của giai đoạn mới thành lập. Chúng ta phải quay lại những bức thư của Cha Lacoste để nhận ra cuộc di cư đầu tiên sang Châu Mỹ này đòi hỏi điều gì..

“ Tôi mong các chị hãy cung cấp cho mình nhiều hơn những bộ quần áo hoàn chỉnh, các chị sẽ khó tìm được vải len ở đây và với giá rất cao. ” (Père Lacoste) Ở Bor, việc may vá suốt ngày để cung cấp quần áo cho những Chị em thân yêu sắp ra đi. Một số cộng đoàn địa phương cũng hỗ trợ việc này. Những nhà truyền giáo của chúng ta cũng mang theo một cây đàn piano, một cây đàn hòa âm và những bức tượng.

Chuyến khởi hành lớn

Vào cuối tháng 4 năm 1885, ba vị Truyền giáo của chúng ta lần lượt rời bỏ Cộng đoàn Bor thân yêu, mà theo lời của Mẹ Lúcia, cộng đoàn vừa buồn vừa mừng cho Chúa. Giống như lần khởi hành đầu tiên, Mẹ Dosithée mong muốn được cùng các Con gái của mình đến

Bordeaux, một lần nữa đi qua Toulouse và Lourdes..

Vào ngày 5 tháng 5, Mẹ Dosithée từ biệt các Chị, tiễn các Chị lên tàu “Congo” và đó là một khoảnh khắc tuyệt vời đầy cảm xúc mãnh liệt nhưng cũng là khoảnh khắc thực sự quảng đại và sẵn sàng đón nhận lời mời gọi của Thiên Chúa. Chúng ta có thể đoán được cuộc gặp gỡ của hai nhóm sáng lập tại Lisbon sẽ diễn ra như thế nào! Khi tụ họp, “họ dấn thân vào đại dương bao la, tất cả cùng nhau ca ngợi và chúc tụng Chúa”. Đó là ngày mồng mười tháng Năm..

 

 

(Bài viết của Sœur Luc-Béatrix de Franssu, Bề trên Tu viện Monteils – Pháp)

(Trích từ ấn bản Anastasiando số 35 vào tháng 4 năm 2024 – 

Tỉnh dòng Đức Mẹ Mân Côi Brésil)


 

Lời Cầu Nguyện Tạ Ơn 140 Năm Truyền Giáo Tại Brazil

(Kinh đọc mỗi ngày Từ ngày 17/11/2024 – 17/11/2025)

Lời cầu nguyện Tạ ơn  140 năm truyền giáo tại Brazil 




Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa vì 140 năm sứ vụ truyền giáo trên đất Brazil, một hành trình được soi sáng bởi gương sáng của Mẹ Anastasie, Mẹ đã sống tình yêu ngôn sứ để phục vụ Nước Trời. Được Chúa Thánh Thần sai đi, Mẹ và các Chị đã mang ánh sáng và hy vọng đến cho người dân Brazil.

Xin Chúa ban cho chúng con sức mạnh và lòng can đảm, để theo gương các Chị, biến đổi mọi nơi chúng con đến. Xin Chúa giúp chúng con luôn trung thành với sứ mạng làm môn đệ truyền giáo, mở rộng vương quốc tình yêu của Chúa.

Xin phép lạ phục sinh đổi mới đức tin và niềm vui của chúng con, để chúng con luôn mang lại nhiều hoa trái, theo gương Chúa Giêsu, Thánh Đa Minh và Mẹ Anastasie. Amen.

(Sr Virgínia Helena de Sousa lấy cảm hứng từ lời cầu nguyện của Sr Nilce Velozo de Oliveira trong lời tạ ơn kỷ niệm 140 năm sứ vụ tại Brazil.) 


 

Những Đấng Bậc Anh Hùng

 

                            NHỮNG ĐẤNG BẬC ANH HÙNG

 


Không kể 117 vị tử đạo tại Việt Nam được phong thánh năm 1988 và Anrê Phú Yên được phong chân phước năm 1999, còn hơn một trăm ngàn vị đã anh dũng dâng hiến đời mình, chấp nhận cái chết để làm chứng lòng trung thành và gắn bó với Đức Yêsu, Đấng yêu thương con người dầu phải chết.

 

Họ là ai?

 

Họ là những người cha người mẹ, họ là những người con, họ là những người chồng người vợ, họ là thanh niên thanh nữ, là tráng niên, là bô lão, là chủng sinh, là binh sĩ, là quan là dân, là dì phước là linh mục.  Họ là những bậc tiền bối của dân con Việt Nam hiện nay.  Họ là những người “dường như” không sợ chết.  Họ chấp nhận gông cùm tra tấn, chấp nhận đòn vọt, đói khát, nắng mưa, bệnh tật, và sẵn sàng chấp nhận cái chết.

 

Họ là ai?  Phải chăng họ là những người điên nên không sợ chết?  Phải chăng họ là những người không còn biết trách nhiệm làm chồng làm cha làm con làm mẹ làm vợ làm dâu?  Phải chăng họ không biết trách nhiệm với vợ dại con thơ?  Phải chăng họ không còn ý thức bổn phận làm con phải sống để báo hiếu cha mẹ già yếu cần nương nhờ nơi họ?  Phải chăng họ không còn rung động trước tình cảm bao người thân dành cho họ, mà “ngoan cố” không chịu bỏ đạo để phải chết?

 

Không!  Họ là những người cha người chồng người vợ, vô cùng thương con thương vợ thương chồng.  Họ là những người con rất có hiếu và rất ao ước được sống để phụng dưỡng báo hiếu cha già mẹ yếu.  Họ là những người thông minh có thể làm quan, là những “anh hùng” sẵn sàng hiến mạng cho quê hương tổ quốc.  Họ là những người bình thường chứ không phải là những người điên, họ rất nặng “tình người” chứ không phải là những người “vô cảm.  Họ chết vì người ta muốn giết họ, chứ không phải tự họ muốn chết; tuy vậy họ sẵn sàng đón nhận cái chết chứ không thể chối bỏ Thiên Chúa.

 

Tại sao họ kiên cường và anh dũng như vậy?

 

Họ là những người rất bình thường, nhưng Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng manh.

 

Ai không sợ chết?  Ai không sợ đòn vọt, tù đầy, gông cùm xiềng xích?  Nhưng những bậc tử đạo “dường như” không sợ, vì có một giá trị nào đó cao hơn, một cái gì đó quý hơn mà cho dù tình yêu gia đình, cha mẹ, vợ con, và ngay cả mạng sống cũng không đánh đổi được.  Với họ, Thiên Chúa là nhất, Thiên Chúa trên tất cả, trên tình yêu gia đình, trên tương quan ruột thịt, và trên cả mạng sống mình.

 

Qua các bậc anh hùng tử đạo, người ta đọc thấy không phải “con người” anh hùng, nhưng chính “Thiên Chúa” đang thực hiện những điều kỳ diệu nơi những con người đơn sơ mong manh chất phác, làm họ như những “bức tường bằng sắt, như những bức vách bằng đồng” và kiên vững không gì khuất phục được.  Người ta có thể hủy diệt mạng sống các ngài, có thể giết các ngài, có thể nghiền nát xương thịt các ngài, nhưng không thể bắt các ngài làm theo ý họ.  Thiên Chúa vô hình đang hiện diện qua thực tại hữu hình.  Thiên Chúa hiện diện đó, rất rõ, dù người ta không nhìn thấy Ngài bằng mắt trần.

 

Sống cho đúng là con cháu của những bậc anh hùng

 

Chúng ta là con dân đất Việt, là con cháu của các đấng bậc anh hùng.  Phải sống sao để “con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh.  Xin cho chúng ta có tình yêu đối với Thiên Chúa, đối với Đức Yêsu, và sẵn sàng hy sinh tất cả vì Thiên Chúa.

 

Ngày nay người ta không còn nhiều dịp để “tử đạo” như ngày xưa, nhưng ngày nay người ta vẫn còn phải chọn giữa Thiên Chúa và tiền bạc danh vọng chức quyền; người ta vẫn phải chọn ưu tiên tương quan với Chúa trên những tương quan khác v.v...  Ngày xưa phải đổ máu để sống đúng, để làm chứng; ngày nay không còn dịp đổ máu thể lý, nhưng để sống đúng như những người con của Thiên Chúa, người ta vẫn phải đổ máu “vô hình,” vẫn phải hy sinh, phải chết “chính con người của mình” thì mới có thể sống trọn vẹn cho Thiên Chúa được.

 

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

 

Người Hành Hương

 

NGƯỜI HÀNH HƯƠNG

 


Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã chọn chủ đề Năm Thánh 2025 là: “Những người hành hương của hy vọng.  Chủ đề này được gợi hứng từ thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma: “Đức Trông cậy không làm thất vọng” (Rm 5,5).  Vị Mục tử của Giáo hội Công giáo Hoàn vũ mời gọi các tín hữu ý thức thân phận hành hương của mình, đồng thời cố gắng sống thánh thiện, nên giống Đức Giê-su, Đấng là niềm hy vọng cho thế giới.

 

Sống trên đời, mỗi chúng ta là người hành hương, hay là lữ khách.  Người hành hương là người đang trên đường và, hướng tới một đích điểm.  Điểm đến của những cuộc hành hương thường là những nơi thánh, gắn bó với Chúa, với Đức Mẹ và với các thánh.  Khi ý thức mình chỉ là phận hành hương hay phận lữ khách, Ki-tô hữu hướng về Thiên Chúa và mục đích tối hậu của đời người, hướng về Quê Trời là quê hương vĩnh cửu.  Vì luôn hướng về Thiên Chúa và về Quê Trời, nên Ki-tô hữu coi những gì ở trần gian chỉ là tạm thời.  Như người lữ hành bỏ lại những gì mình gặp gỡ hai bên đường, để chú tâm tiến về phía trước, Ki-tô hữu sống giữa thế gian, mà không dính bén thế gian, nhưng luôn coi thế gian chỉ là cõi tạm.

 

Các Bài đọc Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta một chủ đề chính: trần gian này sẽ qua đi.  Vũ trụ sẽ có ngày bị tận diệt.  Ki-tô hữu tin đó là ngày tận thế.  Thỉnh thoảng chúng ta thấy có những bộ phim nói về ngày tận thế, với những tai họa hủy diệt làm cho cả một thành phố tan tành trong mây khói.  Đó cũng chỉ là những giả tưởng.  Trong Kinh Thánh, Cựu ước cũng như Tân ước, có một thể loại văn chương được gọi là “khải huyền.  Thể loại văn chương này thường dùng những hình ảnh hiện tại để nói về tương lai, và thường đi kèm những tai ương và thảm họa, làm cho con người lâm vào cảnh quẫn bách đau thương.

 

Giáo lý về “Tận thế” hay “Cánh chung” là một tín điều của Giáo hội Công giáo.  Từ điển Công giáo giải thích như sau: “Tận thế là thuật ngữ chỉ sự kết thúc của thế giới – bao hàm vũ trụ vật chất, không gian và thời gian – vào ngày Chúa quang lâm.  Chúa Giê-su loan báo sẽ có ngày tận thế (x. Mt 13,49) và ngày ấy đến lúc nào thì chỉ mình Chúa Cha biết (x. Mt 24,34-36).  Người cũng hứa ở lại với các môn đệ cho đến ngày tận thế (x. Mt 28,20).

 

Ngày tận thế đã đến chưa?  thưa, chưa đến.  Vậy phải hiểu thế nào về lời loan báo của Giáo hội Ki-tô từ hai ngàn năm nay?  Giáo hội dựa vào giáo huấn của Chúa Giê-su để mời gọi chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, vì không biết giờ nào Chúa đến.  Lời mời gọi tỉnh thức được nhắc đến nhiều lần trong các Tin Mừng.  Tỉnh thức để nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời; tỉnh thức để nhận ra phẩm giá của anh chị em đồng loại; tỉnh thức để nhận thấy thời gian là món quà quý giá Chúa ban; tỉnh thức để chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa thể hiện qua vẻ huy hoàng của vũ trụ, để tôn trọng và chăm sóc trái đất là ngôi nhà chung của chúng ta.  Hơn nữa, nếu ngày tận thế chưa xảy đến theo nghĩa ngũ hành bị thiêu rụi, thì ngày ấy lại đến với mỗi người vào lúc cuối đời.  Đó là lúc họ phải trình diện trước nhan Chúa để tường trình với Ngài về cuộc sống dương thế, với những thành công và thất bại; những công phúc và tội lỗi.  Ngày đó còn được gọi là “ngày phán xét riêng.  Chẳng ai thoát được ngày phán xét này.

 

Nhờ đâu mà chúng ta được tha thứ và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu?  Thư gửi tín hữu Híp-ri trả lời: nhờ Đức Giê-su, Đấng đã dâng mình trên thập giá để làm của lễ xin ơn tha tội cho trần gian (Bài đọc II).  Kể từ hy tế thập giá của Đức Giê-su, phụng vụ của Cựu ước không còn cần thiết nữa, vì nghi thức phụng vụ xưa chỉ là hình bóng.

 

Công đồng Vatican II đã trình bày Giáo hội như dân Chúa đang trên đường lữ hành.  Như dân Ít-ra-en xưa đã đi qua sa mạc để về Đất hứa, Giáo Hội – tức là Ít-ra-en mới – đang tiến bước trong thời đại này tìm về thành đô tương lai bất diệt (x. LG 9).  Dân này ở vào “thời cuối cùng,” đang tiến bước giữa lòng lịch sử loài người với sứ mạng của Đức Ki-tô cũng như đang sống thân phận lữ hành hướng tới thời hoàn tất cánh chung.  Ki-tô hữu là người lữ hành trong đoàn người lữ hành là Giáo hội.  Đích điểm của cuộc lữ hành này là gặp gỡ Chúa cách huyền nhiệm ngay ở đời này, như bảo đảm cho việc thấy Chúa “mặt giáp mặt” ở đời sau.

 

Chúng ta đang cùng với Giáo hội tưởng nhớ những người đã qua đời.  Đứng trước ngôi mộ của người thân, chúng ta càng cảm nhận sự mỏng giòn của kiếp nhân sinh.  Cây thập giá trên mộ Ki-tô hữu báo trước sự phục sinh, như chúng ta tuyên xưng: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.  Những người nằm dưới ngôi mộ đang thầm thì nhắc chúng ta về kinh nghiệm cuộc đời, nhất là kinh nghiệm về sự chết.  Hãy thinh lặng để lắng nghe thông điệp của họ.

 

Chúa nhật hôm nay cũng là ngày Thế giới người nghèo do Đức Thánh Cha Phan-xi-cô thiết lập.  Đức Bác ái Ki-tô giáo và truyền thống tương thân tương ái của dân tộc Việt gặp gỡ nhau trong đức tin của người tín hữu.  Một tác giả đã viết: “không ai nghèo đến mức không có gì để cho đi, và không ai giàu đến mức không cần nhận một thứ gì đó.  Khi cho đi là khi ta nhận lãnh.  Kinh nghiệm thực tế cho chúng ta thấy điều này.  Xin Chúa chúc phúc cho lòng quảng đại của chúng ta đối với anh chị em nghèo khó.

 

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

 

Bổn Mạng tháng 11

 

THÁNG 11

 


NGÀY

LỄ

QUAN THẦY

03/11

Lễ thánh Martin de Porrès

  *Bổn mạng Cộng đoàn Martin (Cung Kiệm)

*Chị Thu Thảo

17/11

Lễ thánh Élisabeth

Chị Hiền

21/11

Lễ Đức Mẹ dâng mình    

Bổn mạng Thỉnh sinh

22/11

Lễ thánh Cécile

Chị Nhung

27/11

Lễ thánh Cathérine Labourée

Chị Sáng

Ghi chú:

 

Từ ngày 21/11 đến ngày 23/11: làm Tuần Tam Nhật kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Bảo trợ Tỉnh dòng.

 

LỄ GIỖ BỐ MẸ CHỊ EM

TƯỞNG NHỚ VÀ CẦU NGUYỆN

 

 

NGÀY

LỄ GIỖ

08/11

Giỗ Anh Chị Em Trong Dòng Đaminh

20/11

Bà cố Mônica -Thân mẫu Chị Nhi

26/11

Bà cố Têrêsa -Thân mẫu Chị Lệ

27/11

Ông cố Đaminh Maria - Thân phụ chị Lan (Cat)

28/11

Ông cố Tôma - Thân phụ Chị Diễm Lan