CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH - C

Phụng vụ hôm nay hướng tâm hồn chúng ta mừng lễ Chúa lên trời vào tuần tới, bởi vì việc Chúa về trời là tột đỉnh của mầu nhiệm Sống lại và đi vào vinh quang với Chúa Cha. Các bài đọc trong phụng vụ phản ánh thực trạng xảy ra nơi các tông đồ cách đây 2000 năm. Trong giây phút ly biệt đầy xốn xang, Chúa đã trấn an các học trò mình không phải bằng liệu pháp tâm lý, nhưng Ngài hứa ban Thánh Thần, là nguyên lý của bình an đích thực. Ngài khuyến mời các ông hãy tuân theo những chỉ dạy của Thần khí để có được bình an thực sự trong tâm hồn.
Thầy để lại bình an cho anh em.
Chắc chắn đây không phải là một lời chúc mang tính khách sáo, nhưng là một động thái Đức Giêsu đã thể hiện giữa các môn sinh của mình. Trong mỗi Thánh lễ, Giáo hội vẫn cầu nguyện xin Chúa Giêsu ban bình an xuống trên toàn thể Hội thánh giống như ngày xưa Ngài đã phú trao bình an cho các tông đồ trước khi đi thụ nạn. Nhưng sự bình an Chúa nói ở đây là bình an như thế nào?
Người ta vẫn thường nói: “Muốn có hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh”. Cũng vậy, bình an mà Chúa Giêsu ban tặng đòi hỏi các học trò phải quyết liệt đi vào cuộc chiến đầy gian nan, đó chính là cuộc chiến đấu thiêng liêng. Trong cuộc chiến gian khổ ấy, chúng ta phải chấp nhận chết để được sống, phải đi vào mầu nhiệm tự hủy để được tái sinh trong đời sống mới. Vì thế, Chúa đã nói: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy không theo kiểu thế gian (c.27). Hòa bình theo cách thế gian chỉ dựa vào sức mạnh của vũ khí và tiềm lực quân sự, còn bình an mà Chúa Giêsu đem đến phát nguồn từ chính Thánh Thần. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô cũng viết: “Hướng đi của Thần khí là sự sống và bình an” (Rm 8,6).
Trong lần tiếp ông Gorbachop và bà Raissa vào năm 1989, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã trao tặng ông Tổng Bí thư Đảng cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ một cuốn Kinh thánh, bên ngoài đề hàng chữ ‘Tôi là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống’. Đồng thời, Đức Thánh Cha cũng trao tặng bà Raissa một cỗ tràng hạt với câu cắt nghĩa ‘Nữ Vương ban sự bình an’. Ngài muốn ngụ ý nói rằng, chỉ qua Đức Giêsu chúng ta mới tìm ra con đường của sự thật dẫn đến sự sống, đồng thời bình an thật sự đến với loài người không phải dựa trên vũ khí, tiền bạc hay sức mạnh quân sự. Chúa Giêsu ban bình an cho các học trò của Ngài không theo kiểu cách thế gian. Ngài mời gọi họ hãy rộng mở tâm hồn để Thần khí tác động và luôn sẵn sàng đi vào cuộc chiến nội tâm, đặc biệt khi đứng trước viễn ảnh đen tối của Thập giá.
Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.
“Đừng sợ”. Đây là điệp khúc được Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần. “Đừng sợ những kẻ giết được thân xác nhưng không làm gì được linh hồn anh em”. “Đừng sợ, ta đã thắng thế gian”... Đây không phải là một lời trấn an mang dạng thức tâm lý, vì Chúa Giêsu không bao giờ đóng vai một nhà tâm lý học đối với các môn sinh của mình. Ngài mời gọi các môn đệ can đảm đối diện trước viễn ảnh Thập giá và cái chết. Những lời Chúa nói trong Tin mừng hôm nay nằm trong bối cảnh bữa tiệc ly trước khi đi thụ nạn. Trong bài diễn từ rất dài ấy, Chúa nhắc đi nhắc lại về nguyên lý của tình yêu, là yếu tố giúp ta thắng vượt mọi sợ hãi. Thánh Phaolô cũng đã viết: “Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Tình yêu sẽ giúp chúng ta thực sự lưu lại trong Chúa, Đấng hằng sống, và chính Chúa Giêsu đã mời gọi: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu Thầy” (Ga 15,9) bằng cách tuân giữ những điều Thầy truyền dạy”(c.10). Cũng thế, ngày hôm nay, Chúa cũng khẳng định rằng yêu mến Chúa chính là tuân giữ lời của Ngài (Ga 14,23).
Sợ hãi là kinh nghiệm mà chúng ta vẫn thường hay có. Người trẻ sợ tuổi già mau đến. Thanh niên khỏe mạnh sợ lúc bệnh tật hay ốm đau. Đôi trai gái yêu nhau say đắm sợ những giây phút ân ái mặn nồng vụt tan biến. Người giàu sợ sẽ đến ngày khách kiệt... Nói chung, có muôn vàn lý do để phải sợ hãi. Khi đối diện trước cái chết, chính Chúa Giêsu cũng sợ. Sự sợ hãi dâng lên tột độ đến mức mồ hôi và máu toát ra. Ngài đã lớn tiếng và rơi lệ cầu xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7), vì Ngài lo sợ, nỗi sợ theo bản tính tự nhiên của con người. Ngài sợ, vì tội lỗi của cả trần gian đang đè nặng trên đôi vai Ngài và cuối cùng dẫn đến cái chết nghiệt ngã. Nhưng khi từ cõi chết sống lại, Chúa Giêsu đã trở thành nguyên lý cho chúng ta về sự bình an để thoát vượt sợ hãi. Khi hiện ra với các môn đệ vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa đến giữa lúc các ông đang ngồi co rúm lại vì sợ sệt. Chúa thổi hơi vào các ông, ban Thánh Thần và trao chúc bình an. Thánh Gioan nêu ra tất cả những chi tiết này để liên kết sự bình an với ân điển của Thần khí, hầu giúp chúng ta thoát vượt sợ hãi. Ngài còn cho các môn đệ thấy những dấu chứng về cuộc khổ nạn nơi thân xác Ngài, và đó cũng là vết tích gây nên sự sợ hãi nơi các tông đồ trước đây.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị đã khởi đầu triều đại Giáo hoàng của Ngài với thông điệp ‘Đừng sợ’. Bước vào năm thánh 2000, Ngài nhắc lại lời hiệu triệu ấy và mời gọi chúng ta, đặc biệt các bạn trẻ: “Đừng sợ. Các con hãy mở tâm hồn để cho Chúa Giêsu chiếm ngự” (Open door to Christ).
Vì thế, thoát khỏi sợ hãi không phải là một liệu pháp mang tính tâm lý, nhưng là một thái độ của đức tin, cắm sâu niềm tin vào mầu nhiệm Đức Giêsu đấng đã chết và đã sống lại.
Thành thánh Giêrusalem, quê hương của bình an đích thực.
Không phải vô tình mà Giáo hội chọn bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay trích trong sách khải huyền, đan kết với sứ điệp Chúa nói trong Tin mừng Gioan. Chúng ta được mời gọi hướng về quê hương vĩnh cửu, là thành thánh Giêrusalem trên trời, nơi chốn của bình an viên mãn. ‘Thành thánh chói lọi vinh quang Thiên Chúa và Con Chiên chính là ngọn đuốc chiếu soi thành’. Có lẽ chúng ta nghĩ rằng quê hương mai sau của chúng ta là một thực tại rất xa vời so với cuộc sống hiện sinh của ngày hôm nay. Không phải thế. Có một bài hát với ca từ rất ý nghĩa: ‘ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay’. Thành Thánh Giêrusalem mai sau đã được bắt đầu ngay từ ngày hôm nay, nếu chúng ta biết sống sung mãn trong tình yêu, kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu.
Đây không phải là nguyên tắc của lý thuyết xa vời vợi, nhưng đời sống đức tin của chúng ta phải được thể hiện cụ thể, bằng cách đi sâu vào sự kết hợp thân tình với Chúa Giêsu qua việc cầu nguyện mỗi ngày. Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta, người sẽ được tôn phong Hiển thánh vào ngày 4 tháng 9 năm nay, là một chuyên gia trong việc thực hành bác ái, đặc biệt đối với những người cùng khổ và bị bỏ rơi. Nhưng chúng ta đừng quên rằng Mẹ luôn nhấn mạnh và khuyên mời các con cái mình chuyên chăm cầu nguyện mỗi ngày. Trong cầu nguyện kết hiệp với Chúa, Mẹ đã nghe được tiếng Chúa Giêsu thét gào trên Thập giá: “Ta khát”. Khởi từ đời sống cầu nguyện, Mẹ đã hăng say lao vào những công việc bề bộn để phục vụ. Điều chính yếu không phải là chúng ta đã làm được những gì, nhưng quan trọng nhất, chúng ta đang là ai, chúng ta có thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu và có thường xuyên cầu nguyện để lưu lại trong tình yêu với Chúa hay không.
Kết luận
Chúa nói hôm nay: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy”. Đó là nguyên tắc bất di bất dịch để có được bình an. Chân lý này cũng được Thánh Phanxicô Salê quảng diễn khi Ngài nói với chúng ta: “Ama et fac quod vis”, bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm.
Lm. GB. Trần Văn Hào