HIỆP HÀNH
THEO TINH THẦN MẸ ANASTASIE
Nhân dịp mừng kỷ niệm 190
năm sinh nhật Mẹ Anastasie – Đấng Sáng Lập Hội dòng Đa minh Đức Mẹ Rất Thánh
Mân Côi Monteils chúng ta được mời gọi cùng nhau học hỏi, tìm hiểu về đời sống
và gương sáng của Mẹ theo tinh thần Hiệp Hành của Thượng Hội Đồng Giám Mục với
chủ đề “Hiệp hành theo tinh thần Mẹ Anastasie”.
Trước tiên chúng ta cùng sơ
lược qua đôi chút tiểu sử của Mẹ Anastasie.
1. Mẹ Marie Anastasie – Đấng Sáng Lập.
Sinh ngày 17-11-1833, tại
Compeyre, tỉnh Aveyron, miền nam nước Pháp.
Mười lăm tuổi, Mẹ dâng mình cho Thiên Chúa.
Năm 16 tuổi, cùng với người
cậu là Linh Mục Gavalda, Mẹ đã lập dòng nữ Đaminh Đức Mẹ rất Thánh Mân Côi tại
Bor, tỉnh Aveyron.
Mẹ được tuyên khấn
ngày 8/10/1851 (18 tuổi) tuổi còn rất trẻ.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi 1863, Mẹ và 8 chị em khấn trọn. Đây là ngày thành
lập thực sự của dòng Đa minh- Đức Mẹ Mân Côi.
Ngày 21-4-1878, trong tiếng
hát ngợi ca, Mẹ đã đi vào cõi vĩnh hằng năm bốn mươi lăm tuổi, nhằm Lễ Phục Sinh.
2. Hiệp
hành trong đời sống cầu nguyện.
Lòng đạo đức của Mẹ đã sớm nẩy nở từ rất sớm. Ngay từ khi rất nhỏ Mẹ
đã yêu thích cầu nguyện và đọc hạnh các thánh. Mẹ thích sống bình lặng, trầm tư
là một sở thích mà Mẹ đã giữ mãi suốt đời và cũng là phương thế giúp Mẹ hiện diện
bằng tâm trí trước mặt Chúa, dầu cho công việc có bận rộn hết sức.
Tuy còn trẻ tuổi Mẹ đã được bổ nhiệm làm Chị Giáo Tập (11 năm liền).
Chính đời sống thánh thiện bù đắp những thiếu sót của kinh nghiệm, Mẹ thi hành
phận sự một cách hoàn hảo và làm thỏa mãn mọi người, các bậc bề trên cũng như
các tập sinh, không ai lưu tâm đến tuổi trẻ của Mẹ lúc bấy giờ mà tất cả đều
thán phục sự nghiêm chỉnh và lòng nhiệt thành của chị Bề trên Tập viện.
Sự hoàn hảo được thể hiện như thế nào? Vừa cương nghị vừa hiền hậu,
luôn bình thản, kiên trì nhẫn nại dù phải bận rộn suốt ngày: linh hướng, giáo dục,
dạy học, giám thị…nhưng không vì thế mà Mẹ quên lãng nếp sống nội tâm hoặc thiếu
tươi cười với chị em. Việc quên mình vì bác ái Mẹ coi đó là một tác động siêu
nhiên. Bên cạnh đó Mẹ biết chia sẻ niềm vui và trạng thái bình an nội tâm với
các chị em cách đơn sơ, dễ dàng cho nên các tập sinh đã đến cởi mở tâm hồn với Mẹ
để trình bày những buồn phiền, chán nản của họ. Các chị chỉ cần nghe và nhìn chị
giáo tập là đủ…
Chúng ta biết rằng, đối với Mẹ việc cầu nguyện rất quan trọng.
Chính vì thế, trước mỗi quyết định, Mẹ luôn suy nghĩ, tìm hỏi, cầu nguyện lâu
giờ.
Năm 29 tuổi, Mẹ được bầu làm Bề trên. Lúc bấy giờ nhà dòng đang bị
xáo trộn……và để tạo nên nguồn sức sống mới cho các chị em trong dòng, Mẹ nhấn mạnh
đến việc cầu nguyện “Cầu nguyện rất nhiều, như Mô sê trên đỉnh núi: giang tay lên trời không ngừng để làm cho sức
lực và dũng chí tuôn xuống các chị em.”
Mỗi chiều tối, sau một ngày làm việc mệt nhọc, lúc các chị em về
phòng ngủ, Mẹ nán lại trước nhà tạm để cầu nguyện cho mọi người. Mẹ nhớ đến từng
chị em trong lời cầu nguyện của Mẹ, Mẹ gửi vào tay Chúa các nhu cầu riêng tư của
mỗi một chị em.
Dưới sự hướng dẫn vừa cương quyết vừa dịu dàng của Mẹ, nhà dòng chớm
nở đang nhiệt tâm và sốt sắng tiến bước trên đường tu đức.
3. Hiệp
hành trong đời sống huynh đệ.
Trong đời sống hằng ngày Mẹ đến với tha nhân với tâm hồn cởi mở,
đơn sơ, tận tụy và không tính toán. Những năm tháng làm Bề trên, Mẹ luôn thăm
viếng các tu viện để duy trì ngọn lửa sốt mến và lòng nhiệt thành trong mọi
nhà, các cuộc thăm viếng của Mẹ thường đi bộ hoặc dùng những lừa, ngựa vụng về.
Suốt cuộc hành trình, tâm hồn Mẹ luôn hiện diện trước mặt Chúa; Mẹ không ngớt cầu
nguyện và suy nghĩ đến những lời lẽ mà sẽ gieo vào các chị em….
Mỗi lần đến tu viện, Mẹ gặp
riêng chị em, lắng nghe, hỏi han, lưu ý đến từng chi tiết, nhận xét kỹ càng mỗi
tâm hồn và tìm hiểu tình trạng cả nhà. Trong những cuộc gặp gỡ riêng cũng như
trong buổi giáo huấn chung, lời Mẹ bao giờ cũng tuôn trào từ đáy lòng: Mẹ ca ngợi
những nét cao thượng và những thú vui của đời nữ tu, ban lời khuyên răn thích ứng
với mọi hoàn cảnh
Một trong những đức tính được
Mẹ quí chuộng đặc biệt đó là gì? Tình huynh đệ.
Điều quan trọng nhất mà tôi căn dặn các chị đó tình nhân ái, sự hỗ
trợ lẫn nhau. Các chị hãy yêu thương nhau.
Phải miễn trách và tha lỗi
cho nhau, rồi làm như thể mình không hề thấy, không hề biết, không hề nói,
không hề bị gì cả…như thế chuyện gì cũng sẽ qua đi cách êm thấm. Tôi hết lòng
khuyên tất cả các chị hãy ra sức làm thỏa lòng nhau, xử sự nhẹ nhàng, dịu dàng,
tỏ tình yêu thương: nói tóm là đồng tâm nhất chí hoàn toàn. Trong đời sống cộng
đoàn: tôi không thích kẻ bôi nhọ người khác để minh oan cho chính mình. Vậy các
chị hãy tỏ rất nhiều tình thương trong mọi sự… các chị hãy là cây gậy cho nhau,
nhưng là cây gậy để chống đỡ và để cố vấn; hãy là muối men cho nhau, nhưng là
muối khôn ngoan để cho mọi người có thể nói: xem kìa! Các chị thương nhau quá
chừng! các chị hợp nhất quá cỡ! đẹp thay đời nữ tu!
Với chị bề trên của một cộng
đoàn thì Mẹ nhắn nhủ điều gì? Mẹ nói: tôi cầu xin Chúa gìn giữ mối hợp nhất
hoàn hảo giữa các chị em, mối hiệp nhất kết ba thành một. Sung sướng thay, mối
hợp nhất ấy! Các chị hãy duy trì mối tình ấy, dù phải trả bất kỳ giá nào, dù phải
chịu hy sinh đủ điều… “Ba ngôi một thể” ở trần gian! Cùng một trái tim! Cùng một
tâm hồn! Ôi tốt đẹp thay!
Ngay cả sắp lìa xa cõi thế Mẹ
vẫn nhắn nhủ chị em cách đặc biệt là hãy có tình bác ái và biết nâng đỡ nhau.
Các chị hãy yêu thương nhau.
4. Hiệp
hành trong Sứ vụ- Tông đồ.
Năm 1850 số lượng người thất học ở pháp rất là cao, đặc biệt ở vùng
quê. Và lúc bấy giờ người ta xem học vấn là một phương dược chống lại sự khốn
khổ. Không gì khẩn trương hơn là đẩy lùi nạn mù chữ và soi sáng đức tin. Cha
Gavalda, chánh xứ Bor tìm một phương thuốc chống lại nỗi bất hạnh đau thương do
sự dốt nát hoàn toàn của giới trẻ, nên ngài vừa giáo viên vừa là giáo lí viên. Đứng trước nỗi thống khổ của thời đại Mẹ
Anastasie đã đáp lại tiếng Chúa mời gọi dâng mình cho Chúa. Để cùng đồng hành
cùng với các bạn trẻ Mẹ đã chăm chỉ học tập rèn luyện, cầu nguyện nên đã lôi cuốn
rất nhiều bạn trẻ đến. Lòng hăng say nhiệt thành và đặc biệt là tình yêu Chúa Giêsu nơi Mẹ đã tạo nên sự
hiệp nhất hoàn hảo giữa nghề nghiệp và tông đồ, khi Mẹ mới 13 tuổi.
Trong tinh thần tinh thần cởi
mở, Mẹ không muốn có sự ngăn cách xã hội của tu hội với nhà của dân làng. Tu viện
mở của hướng ra làng và chị em sống ở đây với tinh thần đón tiếp và đơn sơ chia
sẻ với những người nghèo khổ nhất “Phải đi đến người nghèo với sự nghèo khó của
chúng ta”. Trong các trường học có các chị em coi sóc, Mẹ luôn nhắn nhủ
chị em không phân biệt đối xử giàu nghèo, mà có sự bình đẳng, nâng đỡ các em học
sinh nghèo khó…
Ngay từ đầu những ngày tiên
cộng đoàn mới thành lập, Mẹ đã không ngần ngại sai các chị em đi thăm viếng các
bệnh nhân sau các giờ dạy học, và các ngày thứ 5, Chúa nhật. “Hãy
yêu thương trong cởi mở và không vụ lợi. Chúng ta sẵn sàng xách ví lên đường, nếu
cần, để đi đến nơi đâu Chúa muốn, sẵn sàng chịu khổ nhọc, chịu chết miễn là được
tiếp tục đời nữ tu”. Các chị hãy đến với Chúa với mục đích độc nhất
là làm thỏa lòng Ngài trong đời tu sĩ, ta chỉ thực hiện được ý Chúa bằng cách
thi hành mọi nhiệm vụ mà không bàn luận, không than vãn ra mặt hay cằn nhằn
trong lòng. Lời nói các chị có thể bị lãng quên nhưng gương mẫu các chị sẽ luôn
tồn tại.
Qua những việc làm các chị em đã học được ngôn ngữ của chính Tin Mừng,
nghĩa là loan báo Lời Chúa phải đi đôi với những lời nói, cử chỉ đầy nhân ái.